13/4/11

Bắc bán cầu sẽ bị hủy diệt trong năm nay?

Nếu quả thực lời tiên đoán của nhà tiên tri mù nổi tiếng Vanga trở thành hiện thực, thì trong năm nay toàn bộ động, thực vật ở Bắc bán cầu sẽ bị hủy diệt.

Báo chí Nga đưa tin, vào tháng 5 tới, một quyển sách bao gồm bộ sưu tập các lời tiên đoán của bà Vangelia Gushterove – nhà tiên tri nổi tiếng với tên gọi Baba Vanga sẽ được xuất bản.

Dưới đây là một số lời tiên đoán của bà Vanga:

Tháng 11-2010: Chiến tranh thế giới lần III bùng nổ và sẽ kết thúc vào tháng 10-2014. Loài người sẽ sử dụng đến vũ khí hạt nhân và vũ khí hóa học để tiêu diệt nhau.

Năm 2011: Bụi phóng xạ sẽ tiêu diệt hết các loài động vật và thực vật ở Bắc bán cầu. Sau đó, người Hồi giáo sẽ khơi mào cuộc chiến tranh hóa học chống lại những người châu Âu còn may mắn sống sót.

Năm 2014: Hầu hết mọi người sẽ mắc bệnh ung thư da hoặc các bệnh về da khác như một hệ quả tất yếu của cuộc chiến tranh hóa học.

Năm 2016: Châu Âu gần như vắng bóng con người.

Năm 2018: Trung Quốc sẽ trở thành bá chủ thế giới. Các quốc gia đang phát triển sẽ hết áp bức, bóc lột hoặc trở thành nước đi xâm chiếm các nước khác. Thế giới sẽ ngừng việc sản xuất dầu. Vào năm đó, đầu tiên bạn sẽ đi tàu chạy bằng năng lượng mặt trời. Trong khi đó, sẽ phát hiện ra sự sống ngoài hành tinh, đồng thời khám phá ra bí mật của việc hình thành sự sống trên trái đất.

Năm 2023: Quỹ đạo của trái đất có chút thay đổi.

Năm 2025: Dân cư ở châu Âu sẽ còn rất thưa thớt.

Năm 2028: Sẽ tạo ra một nguồn năng lượng mới. Nạn đói dần dần được khắc phục. Tàu vũ trụ sẽ bay tới được sao Kim.

Năm 2033: Băng ở Bắc cực tan chảy.

Năm 2043: Nền kinh tế thế giới phát triển mạnh.

Năm 2046: Người ta có thể tạo ra mọi bộ phận của cơ thể con người. Việc thay thế các bộ phận trên cơ thể sẽ trở thành biện pháp trị liệu tốt nhất.

Năm 2066: Mỹ sử dụng một loại vũ khí đặc biệt để tấn công người Hồi giáo, đó là khí hậu. Thời tiết đột ngột cực lạnh.

Năm 2076: Xã hội Cộng sản chủ nghĩa được hình thành.

Năm 2084: Thiên nhiên phục hồi.

Năm 2088: Xuất hiện căn bệnh mới – lão hóa trong vòng vài giây.

Năm 2097: Chữa được bệnh lão hóa nhanh chóng.

Đó mới chỉ là một trong số các thảm họa sắp xảy đến theo như lời tiên đoán rùng mình của nhà tiên tri mù nổi tiếng người Bulgaria – bà Vanga.

Tính xác thực

Nhiều người không mong những dự đoán của bà Vanga sẽ trở thành sự thực. Tuy nhiên, người ta cho rằng khoảng 65% trong số những tiên đoán về thảm họa mà loài người sẽ gặp phải đó sẽ trở thành sự thực. Điều đáng sợ hơn là một người từng chơi với nhiều bạn bè của Vanga cho biết cuộc đời họ đã diễn ra y như những gì Vanga dự đoán. Thậm chí họ còn biết được thời điểm và lý do họ lìa đời.

Nhà tiên tri này từng tiên đoán chuẩn xác về vụ tấn công khủng bố ngày 11-9 ở Mỹ, sự bùng nổ Đại chiến thế giới thứ 2, cải tổ kinh tế chính trị ở Liên bang Xô Viết cũ, cùng với đó là cái chết của công nương Diana và thậm chí vụ chìm tàu ngầm nguyên tử Kursk.

Vào năm ngoái, mối quan hệ căng thẳng giữa Israel và dải Gaza càng làm tăng thêm mâu thuẫn ở Trung Đông. Và cho đến hiện tại, người ta vẫn dấy lên mối lo ngại rằng xung đột tại đây vẫn đang rất căng thẳng.


Trái đất sẽ bị hủy diệt vào năm 2012?

Trong năm nay, trận động đất và cơn sóng thần dữ dội tại Nhật Bản khiến hàng nghìn người thiệt mạng và hàng nghìn người khác hiện vẫn đang bị mất tích, nhiều lò phản ứng hạt nhân ở nhà máy điện hạt nhân Fukushima I đang có nguy cơ phát nổ và rò rỉ chất phóng xạ khiếnkhông ít người lo ngại về nguy cơ các loài sinh vật trên toàn Bắc bán cầu sẽ bị tiêu diệt do bụi phóng xạ như lời bà Vanga tiên đoán.

Phần thứ 2 trong lời tiên đoán của bà Vanga về năm 2011 là người Hồi giáo sẽ tiến hành chiến tranh hóa học chống lại những người châu Âu phải chăng là sự ám chỉ tới cuộc chiến đang diễn ra tại Libya? Nhất là khi ông Gaddafi từng tuyên bố ông có cả vũ khí hóa học và quyết chiến với phe đối lập để “biến Libya thành một Việt Nam thứ hai” nếu các nước phương Tây giúp phiến quân nổi dậy chống lại ông.

Điều này khiến nhiều người lo sợ vì bị ảnh hưởng bởi các chất hóa học trong cuộc chiến này. Và nếu đúng như lời bà Vanga tiên đoán thì thảm họa loài người bị nhiễm căn bệnh về da sẽ xảy ra. Những người châu Âu tham chiến ở Libya từ đó sẽ có thể chết dần chết mòn vì căn bệnh này và rồi năm 2016 châu Âu sẽ trở nên trống vắng!

Trong năm 2012 tới, theo nhiều nhà tiên tri, sẽ xảy ra một sự kiện thiên văn học phá hủy thế giới vào ngày 21-12. Cũng theo họ, khoảng thời gian từ ngày 21 đến ngày 23-12 sẽ là thời điểm tận thế của thế giới. Trái đất, mặt trời và lỗ đen trong dải ngân hà sẽ thẳng hàng khiến cả thế giới bị diệt vong. Tuy nhiên, các nhà thiên văn học cho rằng sự cố đó dù có xảy ra cũng chỉ tác động xấu đến sức khỏe của con người chứ trái đất chưa thể diệt vong được.

Khám phá bí ẩn của những loài cá mập 'tàng hình'

Với khả năng phát sáng và hòa lẫn với màu nước, một số loài cá mập trở nên vô hình hoàn toàn trước con mồi và kẻ thù.

Người Anh có câu tục ngữ: “Trái Đất hình cầu chứ không phải hình khối nên bạn không có góc nào để trốn”. Ở vùng nước mở cũng như vậy. Mọi sinh vật thường xuyên đối mặt với những nguy hiểm trong quá trình sinh tồn.

Thế nhưng, vài loài cá mập đã giải quyết được vấn đề trên bằng cách trở nên "vô hình" đối với con mồi và kẻ thù, theo nghiên cứu mới vừa đăng trên tạp chí Experimental Marine Biology and Ecology.

Theo tiến sĩ Julien Cleas, nghiên cứu đã thống kê hơn 50 loài cá mập khác nhau, bằng 10% tổng số loài cá mập có khả năng phát sáng và tạo ra trò lừa bịp hình ảnh: do phát sáng, chúng gần như vô hình, tạo ra khả năng ngụy trang hòa nhập với màu nước.

Các nhà khoa học đã tập trung vào một loài cá mập phát sáng đặc biệt, đó là cá mập đốm bụng nhung, với biệt danh là bóng ma đi săn của vùng vịnh. Ánh sáng phát ra của loài cá mập xuất phát từ photophore nằm ở bên trong cơ thể chúng.
Hình ảnh chụp cho thấy khả năng phát sáng của loài cá mập đốm.
Nghiên cứu được tiến hành: những con cá mập đốm ở vùng vịnh Bergen (Nauy) được đưa tới trạm Hải dương Espeland. Khu vực này có điều kiện giống như môi trường sống của chúng: những bể cá lạnh và tối.

Ban đầu, các nhà khoa học đo cường độ phát sáng của mỗi con cá mập. Vài ngày sau, việc này được lặp lại sau khi họ đặt những thiết bị chiếu sáng phía trên bể cá để kiểm tra phản ứng của chúng với ánh sáng.

Ngay khi bị đưa vào bể cá, hầu hết những con cá mập đều tự động phát ra ánh sáng, kéo dài trong một vài giờ. Quang phổ ánh sáng đo được tương tự như ánh sáng chúng phát ra ở vùng nước sâu quê nhà.

Chúng có khả năng tự điều chỉnh mức độ phát sáng phụ thuộc vào sự thay đổi ánh sáng bên ngoài. Khả năng có được nhờ việc sử dụng mắt và tuyến nhỏ trên não nhằm giám sát thông tin về ánh sáng chiếu xuống từ phía trên.

Thêm nữa, miệng của hầu hết loài cá mập nằm ở phần dưới, theo nguyên tắc ngược sáng, nên kẻ thù hay con mồi khó nhận ra sự khác biệt. Điều này cho phép cá mập bắt được con mồi như các loài nhuyễn thể hay cá mà không hề bị phát hiện.

Cleas nhận xét: “Do nhiều loài kẻ thù của chúng có kiểu mắt hướng lên trên, loài cá mập sử dụng phương pháp ngụy trang tại vùng nước mặt trung tầm (300 - 1.000 m dưới mặt nước)."

Ngoài ra, khả năng phát sáng còn được những loài cá mập này dùng để thu hút những con khác giới. Tiến sĩ Claes nói: “Giao tiếp cũng là một phần chức năng của khả năng phát sáng. Một vài phần cơ thể của con vật trở nên sáng hơn ở cự ly gần, đặc biệt là phần xương chậu, nơi chứa các cơ quan sinh dục”.

Nhờ khả năng độc đáo, những loài cá mập phát sáng có khả năng sinh tồn cao hơn những loài khác, vì tránh được sự truy sát của kẻ thù cũng như tiếp cận con mồi dễ dàng.

Video Bí Ản năm 2012 (với phụ đề)











'Tàu khổng lồ' tấn công Trái đất năm 2012?

Lời “sấm truyền” về ngày tận thế vào năm 2012 sẽ ứng với cuộc tấn công Trái đất của 3 'con tàu' vũ trụ khổng lồ?
Việc săn đuổi UFO trở thành câu chuyện thường ngày từ giữa thế kỷ 20, khi người ta nhận thấy không thể coi thường sự thăm viếng Trái đất của các vật thể lạ nữa. Nhiểu Tổ chức đã thành lập một bộ phận chuyên trách vấn đề này thuộc không quân và các phòng nghiên cứu bí mật. Chắc chắn các tổ chức ấy đã từng thu được mảnh vỡ của những con tàu không gian lạ, thậm chí những sinh vật lạ, quen gọi là “người ngoài hành tinh”.

Tàu vũ trụ khổng lồ sẽ tấn công Trái đất vào năm 2012. (Ảnh minh họa).
Sắp đến lúc các nhà khoa học phải nói rằng mình đã biết được những gì về những vật thể lạ bay đến Trái đất, mạng SETI (viết tắt của Search for Extraterrestrial Intelligence – Tìm kiếm trí tuệ ngoài Trái đất), một tổ chức độc lập phi thương mại đưa ra những thông cáo khiến mọi người phải sửng sốt.
Bởi vì không thể không quan tâm một cách nghiêm túc đến ba vật thể tựa như ba con tàu không gian khổng lồ đang bay về phía Trái đất. Con tàu lớn nhất có chiều ngang 240km. Hai con tàu khác nhỏ hơn. Hiện nay ba vật thể này đang bay trên quỹ đạo của Diêm vương tinh.
Những con tàu này được HAARP (viết tắt của High Frequency Active Auroral Research Program – Chương trình nghiên cứu cực quang hoạt động cao tần - một chương trình nghiên cứu tầng ion của nhiều tổ chức phối hợp là Hải quân Mỹ, Không quân Mỹ, Trường ĐH Alaska và Cục các dự án nghiên cứu quốc phòng Mỹ) đặt tại Alaska phát hiện. Theo các nhà nghiên cứu của SETI, đối tượng họ nhân biết không thể là gì khác ngoài những con tàu đến từ hành tinh xa xôi.
Khi chúng bay đến quỹ đạo của sao Hoả thì Trái đất có thể trông thấy bằng những kính thiên văn quang học. Chính phủ Mỹ đã ra thông báo về sự kiện này. Những con tàu khổng lồ ấy theo tính toán sẽ đến Trái đất vào tháng 12 năm 2012.
Ngày tiếp xúc với nền văn minh ngoài Trái đất ấy buộc người ta phải nhớ đến những lời “sấm ký” trong Lịch Maya cổ, là Ngày tận thế sẽ xảy ra vào nhày 21 Tháng 12 năm 2012. Liệu hai sự kiện đó có trùng nhau không? Các nhà nghiên cứu của SETI đã lầm lẫn ý muốn với thực tế. 50 năm họ không ngừng theo dõi không gian mà không mang lại một kết quả nào.
Việc thám hiểm không gian dù đã trên nửa thế kỷ chỉ được coi là mới bắt đầu. Chúng ta chỉ là những sinh vật sinh sau đẻ muộn trong cái thế giới rộng lớn và chưa được khai phá này. Đa số người đều tin rằng có nhiều nền văn minh khác trong vũ trụ ngài nền văn minh của chúng ta.
Người ta đồn rằng chính người Mỹ đã che giấu thông tin về những phát hiện của họ trên Mặt trăng. Năm 1988, một chuyên gia cao cấp người Mỹ gốc Hoa, thành viên Chương trình không gian quốc gia của Mỹ tiết lộ một bức ảnh có những dấu chân người trên Mặt trăng. Ông cho biết ông nhận được bức ảnh này từ một nguồn đáng tin cậy và lên án Mỹ đã giấu nhẹm thông tin này. Bức ảnh ghi ngày 3-8-1969, hai tuần sau khi Amstrong và Aldrin đặt chân lên Mặt trăng (ngày 20/7/1969). Có nghĩa là các tài liệu về cuộc thám hiểm Mặt trăng sau khi đã nghiên cứu, NASA chỉ lưu trữ trong ngăn tủ mà không công bố.
Ngày 15-3-2009, tờ báo New York Times đã để lộ một tin "giật gân" khác. Cũng vẫn chuyên gia người Hoa nói trên là Mao Kan tuyên bố ông có trong tay trên 1.000 bức ảnh bí mật của NASA chụp lại không chỉ vết chân người mà còn cả một xác người trên bề mặt Mặt trăng. Chuyên gia nọ cho biết một số xương trong xác đó bị mất. Có nghĩa là thi hài người đá đã bị một con tàu của người ngoài hành tinh vứt lại trên Mặt trăng sau khi họ đã lấy đi các mô để đem về nghiên cứu.
Những tấm ảnh được chụp trên Mặt trăng từ hồi đó (1969). Do trên Mặt trăng không có không khí nên tất cả các bức ảnh hết sức rõ nét, chụp khi con tàu đang bay trên quỹ đạo. Hình xác người rõ đến từng chi tiết.
Tiến sĩ Ken Johnston, cựu lãnh đạo Bộ phân Kiểm tra ảnh và dữ liệu thuôc Phòng thí nghiệm Mặt trăng của NASA nói rằng các nhà du hành vũ trụ Mỹ đã nhìn thấy và ghi lại hình ảnh những đống đổ nát phi tự nhiên trên Mặt trăng. Tất cả những tại liệu đó đều được chính phủ Mỹ bảo vệ cẩn mật một cách cố tình.
Đó là chuyện bịa đặt hay sự thật? Bao giờ câu hỏi đó mới được giải đáp.

Phân tích khả năng có thật của Đại Hồng Thủy trong quá khứ

Có một thời loài người đã từng phát triển văn minh rực rỡ, nhưng đạo đức của họ suy đồi, trái tim họ trở nên ích kỷ và độc ác. Họ thường xuyên có những ý nghĩ và mưu tính xấu xa. Thần đã kiên nhẫn chờ đợi loài người thay đổi tốt hơn lên, nhưng vô vọng, vì vậy Thần quyết định hủy diệt loài người đã tha hóa biến chất bằng cơn Hồng Thủy, đồng thời tẩy sạch địa cầu.

Những câu chuyện về Trận lụt toàn cầu đã được ghi chép lại với tư cách là một sự kiện lịch sử hoặc ít ra là “huyền thoại” của nhiều dân tộc khác nhau trên thế giới. Những nhà truyền giáo từ cổ chí kim đều kể lại rằng: họ đã rất kinh ngạc khi khám phá ra là nhiều dân tộc từ rất rất lâu đã truyền từ đời này sang đời khác “truyền thuyết” về một trận lũ lụt khủng khiếp trên quy mô toàn cầu, có rất nhiều điểm cực kỳ giống với những gì được ghi chép trong sách Bible. H.S. Bellamy trong tác phẩm “Những Mặt trăng, Thần thoại và Con người” ước tính có gần 600 “huyền thoại” về Đại hồng thủy trên toàn thế giới. Các nền văn minh cổ đại như Ai Cập, Babylonia, Lưỡng Hà, Sumeria, Peru, Ấn Độ, Trung Quốc, Nga, châu Mỹ, xứ Wales, Hawaii, Scandinavia, Sumatra, Polynesia, vv… tất cả đều có các phiên bản riêng của họ về một trận Đại Hồng Thủy cực lớn toàn cầu.
Nội dung chính của “truyền thuyết” Đại Hồng Thủy trong Sáng Thế Ký như sau:
Có một thời loài người đã từng phát triển văn minh rực rỡ, nhưng đạo đức của họ suy đồi, trái tim họ trở nên ích kỷ và độc ác. Họ thường xuyên có những ý nghĩ và mưu tính xấu xa. Thần đã kiên nhẫn chờ đợi loài người thay đổi tốt hơn lên, nhưng vô vọng, vì vậy Thần quyết định hủy diệt loài người đã tha hóa biến chất bằng cơn Hồng Thủy, đồng thời tẩy sạch địa cầu. Thần lựa chọn Noah vì ông còn đạo đức tốt đẹp và cho ông biết trước Đại thảm họa sắp xảy ra. Thần dạy ông đóng một con tàu để cứu bản thân, gia đình, những người khác và các cặp đôi động vật, đồng thời tích trữ nhiều thức ăn trên tàu. Rồi cơn Hồng Thủy thình lình xuất hiện, mưa liên tục suốt 40 ngày đêm, nước ngập tràn trái đất, ngập cả những đỉnh núi cao. Tất cả mọi sinh vật trên trái đất đều bị hủy diệt. Rồi Noah thả chim bồ câu ra để thử xem nước rút chưa. Lần đầu tiên chim quay về vì không có gì ngoài mặt nước mênh mông. Lần thứ 2 chim ngậm cành ôliu bay về nghĩa là nước đang rút dần. Lần thứ 3 bồ câu không bay về nữa vì nước đã rút và nó đã tìm thấy đất liền. Sau cơn Hồng Thủy, Noah và những người sống sót khác đã sinh sôi lại loài người.
Những phiên bản khác của “truyền thuyết” Đại Hồng Thủy hầu hết đều có các chi tiết cụ thể rất tương đồng với câu chuyện Đại Hồng Thủy trong Bible trên. Ví dụ:

1. Sự cảnh báo về Trận Lụt sắp tới,
2. Về việc đóng một chiếc tàu trước khi sự việc xảy ra,
3. Sự bảo tồn nhiều cặp đôi của các loài động vật,
4. Về việc cứu sống những gia đình,
5. Dùng cách thả chim để xác định xem liệu mực nước đã rút xuống hay chưa.
Sự giống nhau đến mức đáng kinh ngạc giữa các truyền thuyết về Đại Hồng Thủy được tìm thấy ở tất cả mọi vùng miền trên toàn thế giới đã chỉ ra rằng: tất cả chúng phải bắt nguồn từ cùng một nguồn gốc – một sự kiện toàn cầu, chỉ vì lưu truyền quá lâu đời cho nên mới có một vài điểm khác biệt nhỏ mà thôi.
Chúng ta hãy so sánh giữa ghi chép về Đại hồng thủy trong quyển Bible với ghi chép của người Babylon xưa.
Quyển sách BIBLE Câu chuyện BABYLON Genesis 6:19 Và ngươi hãy mang lên tàu mỗi giống loài một cặp đôi, để chúng được sống cùng ngươi Lấy mầm sống của tất cả các loài sinh vật và đưa lên tàu Genesis 7:1 Bước lên tàu Genesis 7:16 Đóng cửa lại
Tôi lên tàu và đóng cánh cửa lại Genesis 8:8 Ông thả một con bồ câu… Nhưng con bồ câu không tìm thấy chốn dừng chân nào cả, và nó quay về Tôi thả một con chim bồ câu … Con bồ câu bay đi, rồi quay trở lại, bởi nó không tìm thấy nơi nào để nghỉ cánh, cho nên nó quay về Genesis 8:7 Ông thả một con quạ, nó bay đi bay về cho đến khi nước trên mặt đất rút khô Rồi tôi thả một con quạ ra. Nước đang rút dần đi. Nó ăn và nó bay đi bay về. Rồi nó không trở về nữa
Dưới đây là bảng phân tích 35/~600 câu chuyện Đại Hồng Thủy đã được thống kê trên toàn cầu.

Bảng phân tích nội dung các câu chuyện Đại Hồng Thủy khắp toàn cầu. Nhấn vào hình ảnh để phóng lớn.

Ron Wyatt và đằng sau là tàn tích hóa thạch của con tàu Noah “huyền thoại”. Phát hiện này của Ron Wyatt đã được chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ công nhận vào năm 1987. Địa điểm tại độ cao 2.000m trên mực nước biển thuộc dãy núi Ararat này đã trở thành Công viên Quốc gia Noah’s Ark của Thổ Nhĩ Kỳ, và được xem là Báu vật quốc gia của họ
Vào ngày 20/6/1987, Thống đốc tỉnh Agri của Thổ Nhĩ Kỳ tuyên bố với thế giới rằng: các cơ quan khảo cổ Thổ Nhĩ Kỳ xác nhận khám phá của nhóm thám hiểm Ron Wyatt là sự thật. Vật thể hình chiếc tàu trên ngọn núi Ararat tại độ cao 2.000m trên mực nước biển ấy đã được chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ công nhận đúng thật là Con tàu Noah, và tuyên bố khu vực này đã trở thành công viên quốc gia, và là báu vật quốc gia. Có lẽ đây là phát hiện khảo cổ vĩ đại nhất trong lịch sử chứng tỏ thảm họa Đại hồng thủy là có thật.
Vậy nước lụt đến từ đâu? Cái gì đã gây ra thảm họa Đại hồng thủy nhấn chìm trái đất trong biển nước mênh mông?
Mới đây, các nhà khoa học đã khám phá những đại dương khổng lồ nằm ẩn sâu hơn 1.000 km dưới bề mặt trái đất. Họ tuyên bố đã khám phá nhiều khối nước khổng lồ bên dưới bề mặt trái đất và cho rằng có hai đại dương ngầm, và đây chính là nguyên do gây ra thảm họa được kể trong các “truyền thuyết” Đại hồng thủy khắp thế giới.
Khám phá của Giáo sư Wysession thật sự đáng kinh ngạc: Có bằng chứng cho thấy tồn tại ít nhất hai đại dương ngầm bên dưới bề mặt lục địa Âu – Á và Bắc Mỹ, có tâm điểm nằm tại Trung Quốc và phía Nam Hoa Kỳ. Giáo sư nói: “Đặc điểm giảm dần đặc biệt của sóng địa chấn theo chiều dọc rõ ràng cho thấy sự hiện diện của nước. Đặc điểm này tương ứng với nước”.

Hình ảnh về khối nước ngầm dưới lòng châu Á, Nga, và một phần nhỏ dưới Bắc Mỹ. Đây là những quốc gia có sức mạnh hạt nhân lớn nhất thế giới.
(Ảnh: National Geographic)
Các nhà nghiên cứu cũng đã thiết kế mô hình 3D của khu vực dựa theo cơ sở dữ liệu thăm dò độ sâu. Họ cho rằng các đại dương ngầm này có lượng nước không kém Bắc Băng Dương. Nước được xác định ở dưới độ sâu từ 1.200 km đến 1.400 km. Viện sĩ Eric Galimov, Giám đốc Viện Địa hóa học và phân tích giải tích Vernadsky ở Mátxcơva, đánh giá lý thuyết của Giáo sư Wysession là “hoàn toàn đáng tin cậy”.
Cũng nên lưu ý rằng cách đây khoảng 60 năm, các nhà nghiên cứu tại Đại học Manchester nước Anh cũng đã tuyên bố tìm thấy nước biển ngầm dưới bề mặt trái đất. Họ tìm thấy dấu vết của nước khi phân tích khí CO2 phun lên từ độ sâu khoảng 1.500 km. Đây là một kiến thức quan trọng, tuy nhiên dường như người ta không muốn biết tới.

Đáy biển Nhật dịch chuyển 24m sau động đất 9,0 độ richter

Đáy biển gần tâm trận siêu động đất 9,0 richter làm rung chuyển Nhật vào ngày 11/3 vừa qua đã bị dịch chuyển 24m, lực lượng bảo vệ bờ biển Nhật hôm qua cho hay.

Trận siêu động đất/sóng thần đã tàn phá nặng nề các khu vực ven biển ở đông bắc Nhật.

Các máy cảm biến phát hiện thấy một phần lòng biển đã bị dịch chuyển tới điểm cách đông –đông nam vị trí trước khi xảy ra động đất 24m. Trận động đất khi đó đã gây ra sóng thần nhấn chìm nhiều khu vực rộng lớn ở bờ biển đông bắc Nhật.
Hoạt động dưới lòng biển này mạnh hơn gấp 4 lần trên đất liền. Một phần bán đảo Oshika, thuộc tỉnh Miyagi, đã bị dịch chuyển 5,3m.

Hồi tháng 3 vừa qua, Cơ quan khảo sát địa chất Mỹ cho biết lực của trận động đất cũng khiến đảo Honshu, đảo chính của Nhật, dịch chuyển 2,4m.

Bằng chứng những nền văn minh ngoài trái đất từ thời cổ đại

Bằng chứng nền văn minh cổ đại phát triển vượt bậc

Có nhiều khám phá rải rác trên phạm vi toàn thế giới chứng tỏ từ thời xa xưa, trên hành tinh Trái Đất nhỏ bé của chúng ta đã từng tồn tại ít nhất một nền văn minh toàn cầu có trình độ kỹ thuật cao không kém gì so với nền khoa học kỹ thuật hiện đại của chúng ta ngày nay, thậm chí về một số mặt còn vượt trội hơn.


Bằng chứng đầu tiên: Điện đã từng được biết đến và sử dụng trong nhiều nền văn minh tiền sử.

Pin điện tiền sử.
Tại I Rắc: Năm 1936, trong các cuộc khai quật một ngôi làng cổ 2000 năm tuổi ở phía Đông Ai Cập vài trăm km, ngày nay thuộc I Rắc, những người công nhân đã khám phá ra những bình gốm nhỏ kỳ lạ. Những bình này có chứa các trụ đồng được ngâm trong một loại dung dịch đã đông đặc, gắn vào bình bằng nhựa đường, được định niên vào khoảng từ năm 248 trước công nguyên đến 226 sau công nguyên. Trong số này có một bình bằng đất nung cao 6 inch, màu vàng sáng có chứa một trụ đồng kích thước 5 inch chiều dài x 1,5 inch đường kính tiết diện. Ở giữa các trụ bằng đồng là một lõi thép cũng được gắn vào bằng keo nhựa đường.
Nhà khảo cổ học nổi tiếng người Đức Wilhelm Konig, đã kiểm tra mẫu vật và đưa ra một kết luận đáng ngạc nhiên : cái bình gốm này không có gì khác hơn chính là một pin điện thời tiền sử.

Pin điện tiền sử, được trưng bày tại Viện bảo tàng Baghdad
Pin điện tiền sử tại viện bảo tàng Bát Đa, cũng giống như những bình pin gốm khác được đào lên, tất cả đều được định niên từ năm 240 TCN đến năm 226 sau công nguyên trong thời chiếm đóng của đế chế Parthi. Tuy nhiên, tiến sĩ Konig còn phát hiện được những bình đồng mạ bạc khác trong viện bảo tàng Bát Đa, được khai quật từ những vùng đất cổ của người Sumer ở miền Nam I Rắc, qua giám định niên đại cho thấy ít nhất có từ 2500 năm trước công nguyên. Khi những cái bình này được dùi nhẹ vào, một lớp gỉ đồng tách ra từ bề mặt, có đặc điểm của một vật được mạ điện bạc lên một vật bằng đồng. Điều này làm ta không thể không nghĩ rằng những người Pathi đã thừa kế những Pin này từ nền văn minh Sumer, một trong những nền văn minh sớm nhất được biết đến.

Vào năm 1940, Willard F.M. Gray, một kỹ sư từ General Electric High Volatage Laboratory tại Pittsfield, Massachusetts, Mỹ, đã đọc những lý luận của Konig. Dùng những bản vẽ và các chi tiết được cung cấp bởi nhà khoa học hỏa tiễn người Đức Willy Ley, Gray đã làm ra một bản sao từ Pin này. Dùng dung dịch Đồng Sunphát, nó cho một dòng điện khoảng nửa Vôn.


Vào thập kỷ 70 thế kỷ trước, Nhà Ai Cập học người Đức, Arne Eggebrecht đã làm ra một bản sao của Pin Bát Đa và dùng dung dịch nước nho ép nguyên chất mà ông phỏng đoán những nhà khoa học tiền sử đã dùng. Bản sao này đã sinh ra dòng điện 0,87V. Ông đã dùng dòng điện này để mạ vàng cho một bức tượng bằng bạc. Thí nghiệm này đã chứng minh rằng những Pin điện đã được sử dụng khoảng 1800 năm trước khi viên Pin đầu tiên được phát minh bởi Alessandro Volta năm 1799.


Cũng dễ nhận thấy việc sử dụng những pin tương tự có thể đã được những người Ai Cập cổ đại biết đến, nơi mà vài mẫu vật với dấu vết mạ điện những kim loại quý được tìm thấy tại nhiều địa điểm khác nhau. Có vài khám phá dị thường từ nhiều vùng khác nhau, cho phép khẳng định điện đã được sử dụng trong một quy mô lớn.


Những hình chạm khắc tại Ai Cập 3000 năm trước


Vào năm 1848, một đoàn nghiên cứu khảo cổ làm việc tại Ai Cập đã khám phá ra những ký hiệu bí mật kỳ lạ trên một đoạn rầm trên trần tại một ngôi đền cổ tại Abydos, vài trăm dặm về phía Nam Cairo. Những ký hiệu này đã được sao chép cẩn thận và gửi về Châu Âu. Bí ẩn của những hình vẽ này đã gây tranh cãi nóng bỏng trong những nhà Ai Cập học lúc bấy giờ, tuy nhiên dần dần, do không thể hiểu các hình vẽ đó nói về điều gì, họ đã gạt nó sang một bên như là những vật thể kỳ dị mà không ai có một giải thích thỏa đáng nào, rồi rơi vào quên lãng.


Vào giữa thập kỷ 90 thế kỷ trước, những bức ảnh và phim video, được chụp đầu tiên bởi những du khách viếng thăm Abydos, bắt đầu xuất hiện trên internet. Chúng mô tả “những ký hiệu tượng hình về những cỗ máy kỳ lạ” vốn đã được khám phá vào thế kỷ 19. Ngôi đền mà người ta tìm thấy những ký hiệu tượng hình này được xây dựng vào thời Pharaong Seti I khoảng 3000 năm trước. Đối với những người quan sát hiện đại chúng rõ ràng đó là những cỗ máy kỳ lạ, nhưng lại hết sức bí ẩn đối với những người thuộc thời của nữ hoàng Victoria. Thực tế chúng là nhiều chủng loại khác nhau của các thiết bị bay cùng với một chiếc xe tăng, và trong số những thiết bị bay là một chiếc máy bay trực thăng! Đó là một trong những khám phá gây sửng sốt nhất được tìm thấy tại Ai Cập.

Gần đây, tờ báo uy tín của A Rập “Al-Sharq Al-Awsat” đã phát hành nhiều ảnh được chụp tại một ngôi đền Ai Cập khác, đền thờ Amon Ra tại Karnak. Các bức ảnh là những chạm khắc khoảng 3000 năm trước đây. Chúng tỏ ra rất giống với những hình chạm khắc tìm thấy tại Abydos. Đó là một máy bay trực thăng chiến đấu với một động cơ và một bộ đuôi, và gần đó, một thiết bị bay hiện đại. Thế là, trong thực tế thì không phải 1, mà có đến 2 bộ hình chạm như thế tại Karnak and Abydos.

Vậy nếu những người Ai Cập cổ không có công nghệ để chế tạo các trực thăng hay các thiết bị bay khác, thì những hình ảnh về các cỗ máy bay đó nguồn gốc từ đâu? Cái lịch sử loài người mà ta được học hiện nay lại một lần nữa bất lực. Có nhiều thư viện huyền thoại cổ xưa, như là Thư viện Alexandria và những thư viện cổ Trung Hoa đã bị tiêu hủy. Nhiều trong số các bằng chứng vô giá về quá khứ xa xăm đã bị xóa sạch. May thay, những văn bản cổ đại vẫn còn được lưu giữ, một phần tại Ấn Độ. Vô cùng kinh ngạc khi biết rằng một vài trong những ghi chép tiền sử ấy kể về những thiết bị bay tinh xảo cao cấp.

Hình chạm này thể hiện cái gì, nếu không phải là một cái xe tăng?
Gần đây, có một báo cáo TQ vừa khám phá những văn bản tiếng Phạn thượng cổ tại Tây Tạng và đã gửi chúng về trường đại học Chandrigarh ở Ấn Độ để dịch. Nghiên cứu sơ bộ cho thấy những tài liệu này chứa những chỉ dẫn chế tạo các phi thuyền vũ trụ.



Những bằng chứng thêm nữa cho thấy thứ được gọi là “Đế chế Rama” miền Bắc Ấn và Pakistan là cổ xưa hơn nhiều so với những gì họ từng nghĩ trước đây. Tàn dư của những thành phố tân kỳ vẫn được tìm thấy trong sa mạc Pakistan, và tại Bắc và Tây Ấn Độ. Theo những văn bản Ấn Độ cổ, Đế chế Rama có những thiết bị bay được gọi là “Vimana”. Có vô số văn bản về Vimana được miêu tả hết sức chi tiết. Những người Ấn Độ tiền sử đã viết toàn bộ các chỉ dẫn sổ tay và sách học về cách điều khiển nhiều loại Vimana khác nhau, nhiều sách trong số đó vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay; một số đã được dịch sang Anh ngữ. Những loại Vimana khác nhau được miêu tả, một số thì hình đĩa, số khác thì hình điếu xì gà. Vimana có vẻ được cung cấp năng lượng bởi vài loại thiết bị phản trọng lực, khiến nó có thể cất cánh theo chiều thẳng đứng và bay lượn trong không gian.


Các chuyên gia Ai Cập học đều biết nhiều bí ẩn của Ai Cập thời thượng cổ là không thể giải thích được nếu sử dụng cái khung hạn hẹp của cách nghĩ truyền thống. Ví dụ họ hoàn toàn không thể giải thích thấu đáo làm thế nào các kim tự tháp được xây dựng nên, và làm thế nào nền văn minh Ai Cập thượng cổ xuất hiện một cách đột ngột với trình độ rất cao ngay từ thủa khai sinh? Nguyên nhân nào Kim tự tháp lớn Giza lại được xây dựng với công nghệ cao hơn nhiều so với các kim tự tháp nhỏ được xây dựng sau nó?

Có rất nhiều mẫu vật đáng tin cậy như những gì chúng ta đã thấy từ đầu thường không được một số “khoa học gia” và các “chuyên gia” để ý một cách đúng mực, họ cũng không khách quan nghiên cứu và tìm hiểu nghiêm túc, chính là bởi vì : nó quá trực quan, đối nghịch với thành kiến của họ, và nó không nằm lọt thỏm trong cái khung hạn hẹp của những “hiểu biết” mà họ được những đàn anh bơm vào não từ khi còn là học sinh tiểu học. Họ nghi ngờ và loại bỏ tất cả những gì không nằm trong cái khung ấy, cũng như cố gắng bằng mọi giá uốn ép những bằng chứng khách quan cho vừa vặn lọt vào cái khung, chứ không muốn cải biến chính cách tư duy sao cho toàn diện và khoa học hơn, cho phù hợp với thời đại và thực tiễn khách quan.
Hầu như tất cả chúng ta đều khẳng định 100% những hình chạm khắc trên thể hiện những chiếc trực thăng và những thiết bị bay công nghệ cao – nếu họ chưa biết chúng được tìm thấy ở đâu. Thú vị hơn nữa, là hình chạm khắc thượng cổ đó lại thể hiện như một chiếc trực thăng chiến đấu, một phương tiện chiến tranh.

Bằng chứng thứ 4: Kỹ thuật hàng không vũ trụ thời tiền sử
Từ những tấm bản đồ cổ đại …
Bản đồ Piri Re’is

Vào năm 1929, một nhóm các nhà sử học đã tìm thấy một bản đồ kì lạ được vẽ trên da linh dương gazel. Nghiên cứu cho thấy đó là một bản đồ thật được vẽ vào năm 1513 bởi Piri Re’is, một đô đốc hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ vào thế kỷ thứ 16. Niềm yêu thích của ông ta là nghệ thuật vẽ bản đồ. Địa vị cao trong hàng ngũ hải quân Thổ khiến ông được phép tiếp cận với Thư viện Hoàng gia Côngstantinốp. Ông khẳng định rằng bản đồ mà ông biên soạn là sao chép lại dữ liệu từ nhiều bản đồ khác nhau, một vài trong số đó có giám định niên đại vào khoảng thế kỷ thứ 4 trước công nguyên.


Bản đồ thể hiện vùng bờ biển Tây Phi, bờ biển Nam Mỹ, và bờ Bắc của Nam Cực. Đường bờ biển Nam Cực được vẽ chi tiết đến hoàn hảo. Tuyến bờ biển dọc Nam Mỹ và Bắc Mỹ, thậm chí cả hình dáng của Cực Nam cũng đều được vẽ một cách tỷ mỷ trong bản đồ Re’is. Ở đó không chỉ thể hiện hình dáng của đại lục, vẽ tỷ mỷ sự phân bố địa hình trong đất liền mà còn chứa đựng những điểm cực kỳ chính xác, biểu thị đầy đủ núi, dãy núi, đảo, sông, suối và cao nguyên. Điều khiến người ta kinh ngạc là dãy núi ở cực Nam đến năm 1852 mới phát hiện ra, nhưng nó đã được vẽ đầy đủ trên bản đồ Re’is. Tuy nhiên câu hỏi làm sao Piri Re’is có thể vẽ một bản đồ chính xác đến thế của vùng Nam Cực đến 300 năm trước khi nó được khám phá không phải là câu hỏi lớn nhất, mà việc bản đồ thể hiện đường bờ biển Nam Cực nằm dưới lớp băng dày mới là bí ẩn khó giải thích nhất. Các bằng chứng địa chất khẳng định rằng thời điểm mà vùng đất Queen Maud Land của Nam Cực không có băng giá gần đây nhất là vào khoảng 4000 năm trước công nguyên.

Vào ngày 6/7/1960 Không lực Hoa Kỳ đã trả lời giáo sư Charles H. Hapgood của trường đại học Keene College một cách chính xác các thỉnh cầu của ông về việc thẩm định giá trị của bản đồ tiền sử Piri Re’is. Nội dung bức thư như sau:

6, July, 1960
Subject: Admiral Piri Reis Map
TO: Prof. Charles H. Hapgood
Keene College
Keene, New Hampshire
Dear Professor Hapgood, Your request of evaluation of certain unusual features of the Piri Reis map of 1513 by this organization has been reviewed. The claim that the lower part of the map portrays the Princess Martha Coast of Queen Maud Land, Antarctic, and the Palmer Peninsular, is reasonable. We find that this is the most logical and in all probability the correct interpretation of the map. The geographical detail shown in the lower part of the map agrees very remarkably with the results of the seismic profile made across the top of the ice-cap by the Swedish-British Antarctic Expedition of 1949. This indicates the coastline had been mapped before it was covered by the ice-cap. The ice-cap in this region is now about a mile thick. We have no idea how the data on this map can be reconciled with the supposed state of geographical knowledge in 1513.

Harold Z. Ohlmeyer Lt. Colonel, USAF Commander.
Giáo sư Hapgood thân mến, Thỉnh cầu thẩm định các đặc điểm bất thường của bản đồ Piri Re’is được vẽ năm 1513 tới chúng tôi đã được xem xét. Lời khẳng định rằng phần dưới của bản đồ biểu thị bờ biển Princess Martha của Queen Maud Land Nam Cực và Bán đảo Palmer là hợp lý. Chúng tôi thấy rằng đây là một kết luận hợp lôgic nhất và có khả năng đúng nhất. Các chi tiết địa lý thể hiện trong phần dưới của bản đồ cực kỳ giống với các kết quả của phương pháp đo đạc dùng sóng địa chấn xuyên qua đỉnh của chỏm băng bởi các nhà thám hiểm Thụy Điển – Anh vào năm 1949. Điều này cho thấy đường bờ biển đã được vẽ trước khi nó bị băng bao phủ. Chỏm băng trong khu vực hiện nay dày khoảng 1 dặm. Chúng tôi không thể hiểu nổi làm thế nào dữ liệu trên tấm bản đồ này có thể được biết đến với tình trạng kiến thức địa chất vào năm 1513.

Khoa học chính thống khẳng định rằng chỏm băng bao phủ Nam Cực là hàng triệu tuổi. Bản đồ Piri Re’is cho thấy vùng phía Bắc của lục địa Nam Cực đã được vẽ trước khi nó bị băng bao phủ. Điều này không khỏi khiến ta nghĩ rằng nó đã được vẽ ra hàng triệu năm trước, nhưng điều đó là không thể bởi con người theo thuyết tiến hóa* chưa tồn tại vào thời điểm đó. Và các nghiên cứu xa hơn và chính xác hơn đã chứng minh thời kỳ Không Băng gần đây nhất kết thúc vào khoảng 6000 năm trước đây. Vẫn có những nghi ngờ về thời điểm bắt đầu của thời kỳ Không Băng này, được đưa ra bởi nhiều nhà nghiên cứu khác nhau dao động vào khoảng từ 13 đến 9 ngàn năm trước công nguyên. Câu hỏi đặt ra là: Ai đã vẽ Queen Maud Land của 6000 trước. Nền văn minh chưa được biết đến nào có công nghệ cần thiết để làm được điều này?

Ngày nay người ta cho rằng nền văn minh sớm nhất của loài người, theo lịch sử truyền thống được dạy trong trường, đã phát triển tại Trung Đông vào khoảng năm 3000 trước công nguyên, không lâu sau là nền văn minh thung lũng Indus Ấn Độ, nền văn minh cổ Ai Cập và nền văn minh Hoàng Hà TQ. Vì thế, không có nền văn minh đã biết nào có thể làm công việc này. Ai đã ở đây 4000 năm TCN, để có thể làm những việc mà chúng ta đến tận bây giờ mới làm được với các công nghệ tối tân?


Vào thời Trung Cổ đã tồn tại một số bản đồ hàng hải được gọi là "portolani", là thứ bản đồ chính xác của các con đường biển, các đường bờ biển đã biết, các bến cảng, các eo biển, các vịnh … thông thường nhất. Phần lớn những bản đồ này tập trung tại vùng Địa Trung Hải và các biển Aegean, và những con đường được biết khác, như là quyển sách hàng hải mà chính Piri Re’is đã viết. Nhưng một vài báo cáo của những vùng đất vẫn chưa được biết đến, và lưu thông trong một số rất ít thủy thủ có vẻ đã cố gắng giữ kín những kiến thức của họ về những tấm bản đồ đặc biệt đó càng bí mật càng tốt.


Piri Re’is có thể đã được tiếp cận với một số bản đồ như thế khi đến Thư viện của Alexandria, thư viện quan trọng nhất nổi tiếng trong thời kỳ cổ đại. Chiểu theo suy luận của Hapgood, những bản copy của những tài liệu này và một số trong những bản đồ gốc đã lưu chuyển đến những trung tâm nghiên cứu khác, và mang chúng tới Côngstantinốp. Thế là vào năm 1204, năm của lần Thập tự chinh thứ tư, khi những người Venetian xâm nhập Côngstantinốp, những bản đồ này bắt đầu quay vòng trong những thủy thủ Châu Âu.

Để vẽ tấm bản đồ của mình, Piri Re’is đã dùng nhiều nguồn khác nhau, thu thập đây đó trong suốt những chuyến đi của mình. Chính ông đã ghi chú lại nhiều trên tấm bản đồ này nhờ đó chúng ta có thể hình dung được công việc ông đã làm với tấm bản đồ này. Ông bảo ông không chịu trách nhiệm về các nguồn dùng để vẽ nên bản đồ này. Vai trò của ông đơn thuần là của một người soạn thảo dùng một số lớn các nguồn bản đồ gốc khác nhau. Ông cũng nói rằng một vài trong những bản đồ gốc đã được vẽ bởi một số thủy thủ đương thời, trong khi một số khác là từ các bản đồ rất cổ, có niên đại từ khoảng thế kỷ 4 TCN trở về trước.

Sự chính xác tuyệt đối của các bản đồ gốc mà Piri Re’is dựa vào có thể nhận thấy trên tấm bản đồ của ông. Những điểm không chính xác hiếm hoi của bản đồ Piri Re’is là các lỗi của chính Piri Re’is tự gây ra trong quá trình tổng hợp từ các bản đồ tiền sử, mà chủ yếu là : tổng hợp các bản đồ gốc không cùng một tỉ lệ, tổng hợp sai phương vị theo một góc quay lệch.


Vào năm 1953, một sỹ quan hải quân gửi tấm bản đồ Piri Re’is đến Thủy Cục Hải Quân Hoa Kỳ. Để giám định nó M.I. Walters, Kỹ sư trưởng của Cục, đã tham vấn Arlington H. Mallery, một chuyên gia lớn về các bản đồ cổ, người đã từng làm việc với ông ta. Sau một nghiên cứu dài hơi, Mallery đã khám phá ra phép chiếu đã được sử dụng trong bản đồ. Để kiểm tra mức độ chính xác của bản đồ, ông đã tạo ra một hệ lưới ô và dịch chuyển bản đồ của Piri Re’is vào quả cầu: bản đồ hoàn toàn chính xác. Ông phát biểu rằng cách duy nhất để vẽ nên một tấm bản đồ chính xác đến thế chỉ có thể là ở góc nhìn từ trên cao, nhưng ai, 6000 năm trước, có thể có máy bay để mà vẽ bản đồ Trái Đất ??


Thủy Cục Hải quân không thể tin nổi vào mắt mình: họ đã, thậm chí có thể sửa lại những lỗi sai trong cái bản đồ hiện đại mà họ đang dùng lúc đó !!


Độ chính xác dựa trên sự kiểm tra tọa độ kinh độ, mặt khác, cho thấy để vẽ được bản đồ cần thiết phải dùng phương pháp Lượng giác hình Cầu, một thành tựu chưa được phát minh cho đến giữa thế kỷ 18.


Hapgood đã chứng minh rằng bản đồ Piri Re’is là được vẽ trong hình học phẳng, chứa các kinh và vĩ độ vuông góc trong một “lưới ô” truyền thống; bởi thế nó đã được sao lại từ một bản đồ trước mà đã được chiếu ra sử dụng phép lượng giác hình cầu! Không chỉ rằng những người làm ra cái bản đồ gốc đó biết rằng quả đất hình cầu, mà họ còn có kiến thức về chu vi Trái Đất với sai số nhỏ hơn 50 dặm!


Hapgood đã gửi bộ sưu tập những bản đồ cổ (chúng ta có thể thấy bản đồ Piri Re’is không phải là bản đồ duy nhất như thế …) đến Richard Strachan, tại Học viện Công nghệ Massachusetts. Ông muốn biết chính xác cấp độ toán học cần thiết để vẽ nên các bản đồ gốc cao đến đâu. Strachan đã trả lời năm 1965 rằng, cấp độ đó phải rất cao. Thực tế Strachan đã nói để vẽ những tấm bản đồ như thế, các phương pháp hình chiếu, kiến thức cần thiết là của một cấp độ cực cao.


Xem bản đồ Piri Re’is với các kinh và vĩ độ được chiếu ra:

• Bản đồ thứ 1
• Bản đồ thứ 2
Cái cách mà bản đồ Piri Re’is thể hiện Queen Maud Land, các đường bờ biển của nó, các con sông, dãy núi, các sa mạc, các vịnh, có thể được xác nhận bởi một nhóm thám hiểm Anh – Thụy Điển đến Nam Cực (như đã nói bởi Olhmeyer trong thư gửi Hapgood); những nhà nghiên cứu, dùng các thiết bị sonar và sóng địa chấn, đã khẳng định những vịnh và sông, vv … là đang nằm dưới chỏm băng dày khoảng 1 dặm.

Charles Hapgood, vào năm 1953, đã viết một cuốn sách tựa đề "Earth's shifting crust: a key to some basic problems of earth science" – “Sự dịch chuyển vỏ Trái Đất: chìa khóa cho những vấn đề cơ bản của khoa học về Trái Đất”, ở đây ông đã xây dựng một thuyết để giải thích làm thế nào lục địa Nam Cực có thể Không Băng cho đến 4000 năm TCN. Bạn đọc quan tâm đến nội dung của thuyết này có thể xem thêm tại đây.


Thuyết này có các luận điểm chính như sau:

1. Nguyên nhân Nam Cực không có băng phủ, và vì thế ấm hơn nhiều, là vào một thời kỳ quá khứ xa xôi, địa điểm của nó không phải nằm ở vị trí hiện nay trên vỏ Trái Đất. Nó ngày xưa nằm tại vị trí khoảng 2000 dặm về phía Bắc so với hiện tại. Hapgood nói rằng “có thể đặt nó ra ngoài vòng Nam Cực trong một khí hậu ôn hòa hoặc tương đối lạnh”. Đọc thêm về thuyết Trái Đất đổi trục tại đây.
2. Nguyên nhân lục địa này di chuyển xuống đến địa điểm như ngày nay có thể được tìm thấy trong một cơ chế gọi là “sự trượt vỏ Trái Đất”. Cơ chế này, không nên nhầm lẫn với thuyết về kiến tạo mảng hoặc là sự trượt lục địa, là một thứ nhờ đó mà quyển đá, toàn thể vỏ ngoài của trái đất “có thể dịch chuyển theo thời kỳ, dịch chuyển trượt qua phần dẻo hơn bên trong, giống như là da của một trái cam, nếu nó lỏng lẻo, có thể dịch chuyển trên phần bên trong của quả cam toàn thể đồng thời”. (Charles Hapgood, trích dẫn trong sách "Maps of the ancient sea-kings", Bạn có thể vào đây để tìm thêm thông tin).

Thuyết này đã được gửi cho Albert Einstein, và ông rất hứng thú nhiệt tình trả lời một cách nhanh chóng. Mặc dù các nhà địa chất dường như không chấp nhận thuyết của Hapgood, Einstein có vẻ còn cởi mở phóng khoáng hơn cả Hapgood khi phát biểu:

“Trong một vùng địa cực có một sự tan rã dần dần của băng tuyết, không được phân phối đồng đều xung quanh cực. Sự xoay chuyển của Trái Đất dựa trên những khối lượng bất đối xứng, và gây ra một xung lượng ly tâm truyền đến lớp vỏ cứng của Trái Đất. Sự tăng dần đều của xung lượng bất đối xứng được sản sinh ra khi đến một điểm giới hạn nào đó, sẽ gây ra một chuyển động của lớp vỏ cứng Trái Đất phía trên phần bên trong của nó”.
Lời dẫn của Einstein cho cuốn sách “Sự dịch chuyển lớp vỏ cứng của Trái Đất”, trang 1

"In a polar region there is a continual deposition of ice, which is not symmetrically distributed about the pole. The earth's rotation acts on these unsymmetrically deposited masses, and produces a centrifugal momentum that is transmitted to the rigid crust of the earth. The constantly increasing centrifugal momentum produced in this way will, when it has reached a certain point, produce a movement of the earth's crust over the rest of the earth's body...." (Einstein's foreword to "Earth's shifting crust" p.1)

Dù sao, dẫu Hapgood đúng, bí ẩn vẫn nhiều.

Bản đồ Piri Re’is là một thứ gì đó có vẻ hoang đường. Dường như không có cách nào mà một người ở trong thời đại xa xưa có thể vẽ một tấm bản đồ chính xác như thế; thực tế các tọa độ kinh độ là hoàn toàn chính xác. Và đó là thể hiện của một trình độ kỹ thuật công nghệ không tin nổi: phương tiện tính toán vĩ độ chính xác tương đối đầu tiên mới chỉ được phát minh vào năm 1761 bởi một người Anh tên là John Harrison, tức là sau Piri Re’is 248 năm. Và trước đó không có cách nào có thể tính toán vĩ kinh độ chính xác đến mức có thể chấp nhận được: phải có những lỗi đến hàng trăm km.


Và tấm bản đồ Piri Re’is chỉ là một trong nhiều bản đồ thể hiện những vùng đất chưa được biết đến, những kiến thức không thể tin nổi, với độ chính xác mà ngày nay chúng ta cũng phải kinh ngạc.



Thực tế Piri Re’is bản thân cũng khẳng định ông đã lấy những bản đồ cổ hơn làm nguồn; và những bản đồ này đã được dùng như là nguồn gốc cho những người đã vẽ những tấm bản đồ khác nhau mà cho đến lúc đó vẫn ở độ chính xác tuyệt vời. Ấn tượng là “Dulcert's Portolano” “Bản đồ của Dulcert” năm 1339, vĩ độ của Châu Âu và Bắc Phi là hoàn hảo, và tọa độ kinh độ của Địa Trung Hải và Biển Đen là chính xác đến từng nửa độ.

Và đáng kinh ngạc hơn là “Zeno's chart”, “Bản đồ của Zeno”, vẽ năm 1380. Nó cho thấy một vùng rộng lớn ở phía Bắc, chạy dọc đến Greenland; độ chính xác của nó gây sửng sốt. Một bản đồ gây sửng sốt nữa được vẽ bởi Hadji Ahmed người Thổ Nhĩ Kỳ, vào năm 1559, trong đó ông thể hiện một dải đất liền khoảng 1600km chiều rộng, nối liền Alaska và Siberia. Giống như một cây cầu tự nhiên từng tồn tại, đã bị bao phủ bởi nước vào cuối kỷ Băng Hà vừa rồi khi mực nước biển tăng lên.


Oronteus Fineus là một người khác đã vẽ một tấm bản đồ chính xác khó tin khác. Ông đã vẽ Nam Cực không có băng, vào năm 1532. Có những tấm bản đồ thể hiện Greenland làm 2 phần tách biệt, đúng như sự khẳng định của đội thám hiểm địa cực người Pháp đã khám phá ra có một tảng băng rất dày nối liền 2 hòn đảo tách biệt để tạo thành Greenland.

Như ta đã thấy, nhiều bản đồ là thuộc về những thời kỳ rất cổ xưa, và ta có thể nói rằng toàn thể hành tinh đều đã được vẽ trên bản đồ vào thời đó. Chúng dường như là những mảnh nhỏ của một tấm bản đồ thế giới cổ đại, được vẽ bởi những người bí ẩn sở hữu những công nghệ rất cao ngay cả so với ngày nay.

Khi toàn thể loài người có lẽ còn sống trong thời kỳ hoang sơ thì ai đó đã “vẽ ra giấy” toàn bộ bề mặt địa lý của hành tinh. Và nó là một kiến thức phổ biến, bằng một cách nào đó bị chia cắt thành nhiều mẩu nhỏ để rồi lại được tập hợp đây đó bởi một vài người, và họ chỉ sao chép những gì họ có thể tìm thấy trong các thư viện, các khu chợ Đông Phương và bất cứ nơi nào họ tìm thấy chúng.


Hapgood đã vạch rõ những điều kinh ngạc hơn nữa: Ông đã tìm thấy một tài liệu bản đồ được sao chép bởi một nguồn cổ hơn được vẽ trên một cột đá, ở TQ, vào năm 1137. Nó thể hiện cũng một trình độ kỹ thuật công nghệ cao như thế, với cùng một phương pháp lưới ô, với cùng sự sử dụng phương pháp lượng giác hình cầu như vậy. Nó có quá nhiều điểm chung với những bản đồ Châu Âu khác, khiến ta phải nghĩ rằng phải có một nguồn gốc chung: có thể nó thuộc về một nền văn minh đã diệt vong nhiều ngàn năm trước?

Như chúng ta có thể thấy bên dưới, một phép chiếu góc cực (nhìn Địa Cầu từ một điểm trên cao), từ một điểm bên trên Cairo, Ai Cập thuộc châu Phi cho thấy tấm bản đồ của Piri Re’is


Vào Năm 1956, "máy bay vàng" từng được trưng bày trong Triển lãm Pre-Columbian Gold, ở New York (Mỹ). Đôi cánh hình tam giác và phần đuôi lớn hướng theo phương thẳng đứng của những vật trưng bày đó khiến các nhà thiết kế máy bay Mỹ chú ý. Họ đã thử các "máy bay" cổ đại đó trong một đường ống gió. Hoá ra có một kiểu "máy bay vàng" có thể lướt với tốc độ siêu âm. Mẫu "máy bay" cổ đại này đã giúp hãng Lockheed chế tạo được loại máy bay siêu âm tốt nhất thế giới hồi đó.

25 loài rùa có nguy cơ tuyệt chủng

Hiện nay, số lượng loài rùa trên thế giới, đặc biệt là ở châu Á đang giảm mạnh vì nạn săn bắt trái phép để làm thực phẩm, vật nuôi, thuốc chữa bệnh… và vì môi trường sống bị phá hủy. Báo cáo mới đây của Liên minh Bảo tồn Rùa cho biết rùa hiện đang nằm trong nhóm các loài động vật có xương sống bị đe dọa nhất trên thế giới, với khoảng một nửa trong số 300 loài có nguy cơ tuyệt chủng. Báo cáo đã chỉ ra 25 loài đang bị đe dọa nhất, bao gồm 17 loài ở ở châu Á, 3 ở Nam Mỹ, 3 ở châu Phi, 1 ở Úc, 1 ở Trung Mỹ và Mexico.
Rùa Batagur (Batagur baska) trước đây phân bố chủ yếu ở các con sông và cửa sông vùng Nam Á, ở Ấn Độ, Bangladesh, Myanmar. Loài này trở nên nguy cấp do bị săn bắt (kể cả trứng), do suy giảm và mất môi trường sống từ các hoạt động khai thác khoáng sản, phát triển thủy điện, ô nhiễm… (Ảnh: Rupali Ghosh).
Rùa hộp McCord’s (Cuora mccordi) là một loài thuộc chi Cuora Đông Nam Á (họ Geoemydidae). Đây là một trong những loài rùa đặc hữu nguy cấp của Trung Quốc vì đang bị ráo riết săn bắt để làm thuốc cổ truyền. (Ảnh: Torsten Blanck)
Rùa lưỡi cày (Astrochelys yniphora) được cho là một trong những loài rùa hiếm nhất thế giới do nạn buôn bán “thú cưng” bất hợp pháp. Đây cũng là loài đặc hữu của Madagascar. Nếu không có những biện pháp bảo vệ, các nhà khoa học dự đoán chúng sẽ tuyệt chủng trong vòng 30 năm tới. (Ảnh: A.G.J. Rhodin)
Rùa đầu đỏ Batagur kachuga </SPAN>từng sống phổ biến ở các con sông lớn thuộc miền Bắc Ấn Độ, Bangladesh và Nepal, nhưng do tình trạng thu thập trứng rùa, xây đập và ô nhiễm nguồn nước nên hiện chỉ còn một số cá thể sống ở sông Chambal, miền Trung Ấn Độ. (Ảnh: Brian Horne)
Rùa sông Miến Điện Batagur trivittata là họ hàng với loài Batagur kachuga. Chúng đã từng cho là tuyệt chủng từ năm 1935 và được phát hiện lại vào năm 1993 trên hệ thống sông Irrawaddy của Miến Điện (Myanmar - Burma). Đến nay, số lượng của loài đã giảm xuống dưới 10 cá thể. Đây là hệ quả của tình trạng thu lượm trứng, săn bắn và suy thoái môi trường sống trong đó có tác động từ các đập nước và hoạt động khai thác vàng. (Ảnh: Rick Hudson)
Rùa cổ rắn (Chelodina mccordi) được phát hiện trên hòn đảo nhỏ Roti của Indonesia vào năm 1994. Chúng cũng nằm trong nhóm động vật hoang dã bị lùng bắt dữ dội tới mức gần như tuyệt chủng vào năm 2000. (Ảnh: Anders G.J. Rhodin)
Rùa khổng lồ Pinta (Chelonoidis abingdoni) hiện chỉ còn duy nhất 1 cá thể ở đảo Pinta của Ecuador. (Ảnh: Anders G.J. Rhodin)
Rùa mai mềm khổng lồ Rafetus swinhoei hiện chỉ còn 4 cá thể sống trên thế giới và đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng cao. Trong đó, hai cá thể loài này đang ở Trung Quốc, 1 cá thể sống tại hồ Hoàn Kiếm và 1 ở hồ Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội. (Ảnh: Tim McCormack)
Rùa hộp Zhou’s (Cuora zhoui) (Ảnh: Torsten Blanck)
Rùa nước ngọt Batagur affinis. (Ảnh: E.H. Chan)
Rùa hộp đầu vàng (Cuora aurocapitata). (Ảnh: Gerald Kuchling)
Rùa hộp ba vạch hay còn gọi là rùa vàng (Cuora trifasciata) có chiều dài mai khoảng 32cm. Trước đây, loài này ở Việt Nam và Lào được coi là một phân loài khác, Cuora cyclornata, songhiện nay quan điểm này không được thừa nhận rộng rãi. Gắn với quan niệm về tài lộc và vị thuốc của người Trung Quốc, cộng với sự suy giảm và mất môi trường sống, loài này gần như tuyệt trong tự nhiên và được nhân nuôi rộng rãi. (Ảnh: Paul Crow)
Rùa sao Miến Điện (Geochelone platynota) với những hoa văn sao đối xứng tỏa ra trên mai đang bị đe dọa bởi nhu cầu nuôi cảnh và giết thịt. (Ảnh: Brian D. Horne)
Rùa mai mềm đầu nhỏ Châu Á (Chitra chitra) có lẽ là loài rùa nước ngọt lớn và nặng nhất với trọng lượng và chiều dài mai kỷ lục từng đo được lên tới 254kg và 120cm, phân bố tại Indonesia, Maylaysia và Thái Lan. (Ảnh: Chris Tabaka)
Rùa Trung bộ (Mauremys annamensis) là một loài rùa nước ngọt có mặt ở các đầm lầy ven biển và sông tại một số tỉnh miền Trung Việt Nam, từ Đà Nẵng tới Phú Yên. Đến nay loài rùa này gần như biến mất trong tự nhiên vì bị săn bắt, môi trường sống thay đổi và do tác động từ các hoạt động phát triển. Năm 2006, một quần thể rùa Trung bộ hoang dã đã được tìm thấy ở gần Hội An (Quảng Nam). Đây là phát hiện mới nhất về sự có mặt của loài này trong tự nhiên kể từ năm 1939. (Ảnh: Rick Reed)

Rùa sông Trung Mỹ (Dermatemys mawii) được tìm thấy chủ yếu tại Mexico, Guatemala và Belize. Thịt của nó thường được ưa chuộng trong dịp Lễ hội ăn chay và Lễ Phục sinh ở Trung Mỹ, và đó là nguyên nhân khiến loài rùa này bị đe dọa. (Ảnh: Melvin Merida)

Rùa đầu to Madagascar (Erymnochelys madagascariensis). (Ảnh: Anders G.J. Rhodin)

Rùa rừng Sulawesi (Leucocephalon yuwonoi). (Ảnh: Cris Hagen)

Rùa Batagur borneoensis. (Ảnh: Doug Hendrie)

Rùa sông Magdalena (Podocnemis lewyana). (Ảnh: Alejandra Cadavid)

Rùa rừng Philippine (Siebenrockiella leytensis). (Ảnh: R.M. Brown)

Rùa mai hình răng (Psammobates geometricus). (Ảnh: Atherton de Villiers)

Rùa Mesoclemmys hogei. (Ảnh: Russell A. Mittermeier)

Rùa cổ rắn đầm lầy (Pseudemydura umbrina). (Ảnh: Gerald Kuchling)
Rùa hộp Vân Nam (Cuora yunnanensis) vốn được cho là tuyệt chủng và cho tới năm 2005, một vài cá thể đã được phát hiện tại tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. (Ảnh: Zhou Ting)

Nếu không có những nỗ lực bảo tồn hiệu quả, các loài rùa trên sẽ tuyệt chủng trong vài thập kỷ tới, theo báo cáo
Loài rùa lâm nguy: 25 loài rùa nguy cấp nhất trên thế giới năm 2011 (Turtles in Trouble:The World’s 25+ Most Endangered Tortoises and Freshwater Turtles—2011) của Liên minh Bảo tồn Rùa

Người Maya không tiên tri về ngày tận thế

Những sấm truyền về “ngày tận thế” đã bị xoá bỏ từ lâu giờ đây được người ta nói đến ở bất cứ nơi nào. Tuy nhiên, ngay cả các nhà khoa học Mehicô, hậu duệ của những người Maya cũng không có khái niệm gì về ngày tận thế.

Niềm tin về ngày tận thế đang đến gần dựa trên một sự kiện không được kiểm chứng, rằng lịch của một tộc người Trung Mỹ trước thời Christopher Colombus là người Maya chỉ đến ngày 21 tháng 12 năm 2012 là kết thúc. Sau ngày này, một số người “nóng đầu” tuyên bố thế giới sẽ biến thành hư vô.


Bộ phim giả tưởng về ngày tận thế 2012.

Thế nhưng những nhà nghiên cứu nền văn hoá cổ của Mehicô – con cháu của dân tộc Maya - tại trường
Đại học quốc gia Mexico lại hoàn toàn phủ nhận những lời đồn bi quan vô căn cứ này. Đại diện của trường Đại học Carmen Valdes, sau khi phân tích một cách toàn diện các văn bản chữ tượng hình mà nền văn minh cổ để lại đã khẳng định: "Trong những di cảo mà dân tộc Maya để lại, không có lời nào tiên đoán về ngày tận thế vào năm 2012”.
Những người Anhđiêng cổ tin rằng một chu kỳ lịch sử kéo dài 5125 và 4 tháng rưỡi. Theo niên lịch của họ chúng ta đang ở kỷ nguyên thứ năm bắt đầu từ năm 3114 trước Công nguyên. Cho nên kỷ nguyên này sẽ kết thúc vào tháng 12 năm sau. Các nhà thiên văn Anhđiêng cổ đã tính toán rằng sự hồi sinh của thế giới sẽ xảy ra trong thời gian nhật chí, nghĩa là mặt trời đi vào khu vực dải Ngân hà.
Nhà nghiên cứu văn hoá Trung Mỹ thời Trung cổ là giáo sư Nicolai Grub, trường Đại học Bonn (CHLB Đức) cũng đồng tình với ý kiến của các nhà khoa học Mehico. Trong một công trình nghiên cứu về Mêhicô trước Colombus, ông đã chỉ ra rằng, trong các bản ghi chép của người Maya “không có một lời tiên đoán nào về ngày tận thế”. Theo ông, “bất cứ người nào phân tích các di cảo viết chữ tượng hình cũng có thể xác nhận không có một “sấm ký” bằng văn bản nói viết về một thảm hoạ toàn cầu xảy ra trên hành tinh của chúng ta”.
Người Maya đã gây dựng được một nền văn minh lớn tồn tại trên ba nghìn năm. Các vị quan tư tế thời đó đã vận dụng toán học và thiên văn học, nghĩ ra được một cách tính lịch hoàn thiện nhất trong lịch sử. Một số nhà nghiên cứu cho rằng về mức độ chính xác của việc xác định thời gian nó còn vượt cả các cách tính lịch Gregrory được thừa nhận rộng rãi ngày nay.

Admin

Thanks for joint