31/5/11

Câu chuyện về con mèo đưa người xấu số lên thiên đường


Một cháu trai của bà K hỏi mẹ: “Con mèo làm gì ở đây vậy?”. Người mẹ, cố kìm nén nước mắt, nói với cậu bé: “Nó ở đây để giúp bà lên thiên đường”.
Mèo Oscar dành phần lớn thời gian trong ngày vào việc lang thang trong trung tâm y tế Steere và sưởi nắng. Ảnh: wordpress.com.

David Dosa là giáo sư của Đại học Brown, thành phố Providence, bang Rhode Island, Mỹ. Ngoài ra ông cũng làm việc tại Trung tâm y tế Steere – nơi chăm sóc và điều trị những người mắc chứng mất trí nhớ trầm trọng – trong cùng thành phố. Oscar là một trong 6 con mèo được nuôi tại trung tâm Steere. Trong những lần đầu tiên Dosa gặp Oscar, vị giáo sư đã bị con mèo cắn.

“Khi tôi gặp Oscar lần đầu tiên, nó chẳng muốn làm bất kỳ điều gì với bất kỳ ai. Con vật dành phần lớn thời gian vào việc lẩn trốn người hoặc tìm một chỗ yên tĩnh để tận hưởng ánh nắng mặt trời”.

Có vẻ như Oscar không muốn giao tiếp với con người. Trên thực tế nó đang để dành sức lực cho một công việc quan trọng hơn nhiều: Báo trước cái chết của các bệnh nhân. Tài năng này đã khiến Oscar nổi tiếng khắp thế giới. Giáo sư Dosa đã miêu tả hành vi khác thường của con vật trong một bài báo trên tạp chí Medicine.
Giáo sư David Dosa và mèo Oscar. Ảnh: uvamagazine.com.
Bà K đang nằm im trên giường. Bệnh nhân này thở đều nhưng không sâu. Đột nhiên Oscar nhảy lên giường của bà và ngửi không khí. Nó xoay theo hình vòng tròn hai lần trước khi nằm bên cạnh bà K.

Một y tá bước vào phòng và kiểm tra sức khỏe bà K. Cô ngừng lại khi nhìn thấy Oscar. Với vẻ mặt lo lắng, người y tá lấy phiếu theo dõi bệnh nhân rồi gọi điện thoại.

Chỉ trong vòng nửa giờ người thân của bà K xuất hiện. Oscar không hề nhúc nhích. Thay vào đó nó kêu khẽ và dụi đầu nhẹ nhàng vào cơ thể người bệnh. Một cháu trai của bà K hỏi mẹ:“Con mèo làm gì ở đây vậy?”. Người mẹ, cố kìm nén nước mắt, nói với cậu bé: “Nó ở đây để giúp bà lên thiên đường”. 
30 phút sau bà K trút hơi thở cuối cùng. Oscar ngồi dậy, nhìn xung quanh rồi lặng lẽ rời khỏi phòng. Nó đi nhanh và nhẹ nhàng đến nỗi những người thân của bà K không hay biết.

Bài báo của Dosa khiến mèo Oscar trở thành đối tượng được giới truyền thông quốc tế chú ý. Thậm chí nó còn có hẳn một trang riêng trên Wikipedia. Những câu chuyện của Oscar được tập hợp trong một cuốn sách có tựa đề “Making Rounds With Oscar: The Extraordinary Gift of an Ordinary Cat” (tạm dịch: Gặp gỡ Oscar: Khả năng phi thường của một con mèo bình thường). Cuốn sách sẽ được xuất bản trong tháng 2. Tác giả cuốn sách chính là David Dosa – giáo sư y khoa và sức khỏe cộng đồng của Đại học Brown. Vị giáo sư 37 tuổi hy vọng rằng khi đọc chuyện về Oscar, độc giả cũng sẽ hiểu thêm về hội chứng suy giảm trí nhớ và việc chăm sóc người bệnh lúc cuối đời.

Giờ đây Oscar vẫn sống trên tầng 3 của Trung tâm y tế Steere. Tầng 3 là nơi dành cho những người già mắc bệnh Alzheimer và nhiều dạng suy giảm trí nhớ khác.

Dù độc giả của cuốn sách về Oscar có tin khả năng kỳ lạ của con mèo hay không thì sự hiện diện của nó bên cạnh những người sắp chết vẫn là món quà vô giá. Nó được coi là niềm an nủi đối với những bệnh nhân phải đối mặt với những khoảnh khắc khó khăn nhất trong cuộc đời họ.

Một người phụ nữ có tên Donna Richards nói với giáo sư Dosa rằng cô cảm thấy có lỗi vì để mẹ trong trung tâm y tế và không thăm nom thường xuyên. Nhưng khi chăm sóc mẹ, Richards lại cảm thấy có lỗi với con trai vì không đưa cậu bé tới bể để tập bơi.

Richards liên tục tới trung tâm y tế Steere khi biết mẹ sắp lìa đời. Nhưng sau ba ngày, một y tá thuyết phục cô về nhà để nghỉ ngơi. Dù do dự, Richards vẫn đồng ý. Một lúc sau mẹ cô qua đời.

Nhưng nữ bệnh nhân già không đơn độc khi chuẩn bị rời bỏ thế giới này, bởi Oscar nằm bên cạnh bà.

Bê giống gấu trúc chào đời ở Mỹ


Một con bê hiếm gặp với nhiều đặc điểm giống gấu trúc đã chào đời tại một trang trại ở bang Colorado, Mỹ.

Con bê đực tên gọi Ben đã chào đời hôm thứ 6 tuần trước tại trang trại của ông Chris Jessen ở quận Larimer ở bang Colorado. Mẹ của nó là một con bò giống Lowline Angus, còn bố là con bò Donovan cũng thuộc giống “bò gấu trúc” tại trang trại.
Ben có một sọc trắng ở nửa người sau và gương mặt màu trắng nhưng có các đốm đen xung quanh mắt, khiến nó trông giống một con gấu trúc.

Ông Jessen bên con bò mẹ và chú bê con.
Đây là con bê gấu trúc thứ 2 chào đời tại trang trại của ông Jessen. Thế giới hiện chỉ có 24 con thuộc giống “bò gấu trúc”.
Bò gấu trúc” là kết quả của kỹ thuật cấy ghép gen do Richard Gradwohl, một nông dân ở Covington, Washington, thực hiện trong suốt 44 năm. Ông Gradwohl đã sử dụng 8 giống bò nhỏ khác nhau để cho ra đời giống bò mới - “bò gấu trúc”.
Ông Jessen cho hay “bò gấu trúc” cao khoảng 1,1m và nặng 453kg khi trưởng thành.
“Bò gấu trúc” thường được nhân giống để làm vật nuôi. Ông Jessen cho hay chúng có giá rất đắt, lên tới 30.000USD mỗi con.

Ông Jessen định huấn luyện Ben để con bê trở nên thân thiện với con người trước khi bán nó vào lúc khoảng 6 tháng tuổi.

"Bò gấu trúc" được lai tạo từ 8 loài bò khác nhau.
Giống bò này rất đắt, có giá tới 30.000 USD mỗi con.

Các bí ẩn xung quanh cái chết của người băng Oetzi


Các nhà khoa học thế giới đã đưa ra nhiều giả thuyết khác nhau về cái chết của người băng Oetzi. Nhóm các nhà khoa học quốc tế gần đây cho rằng người băng Oetzi không phải chết một cách cô độc trên đường chạy thoát do bị thương, mà được tôn kính và an táng một cách long trọng như một chiến binh.
Người băng Oetzi lúc mới được phát hiện. (Nguồn: Internet)
Người băng Oetzi được phát hiện năm 1991 tại một sông băng ở Ötztal Alps, nơi giao nhau giữa biên giới Áo và Italy. Đó là một người đang ông sống vào khoảng 5.300 trước Công nguyên, lúc chết khoảng 40 đến 45 tuổi.
Trước đó, nhiều người cho rằng, cánh tay trái của người băng Oetzi bị trúng tên bởi một trận phục kích, trong quá trình chạy thoát đã tử vong do vết thương chảy nhiều máu, và cơ thể đã bị vùi trong băng tuyết, theo năm tháng đã biến thành xác ướp khô.
Người băng Oetzi mặc áo da thú dày, xung quanh xác ướp có nhiều đồ vật gồm rìu đồng, dao găm, bao tên với nhiều mũi tên, ba lô... Ngoài ra, còn có một cây cung chưa hoàn thiện và một số đồ vật với nhiều chức năng chưa rõ. Những đồ vật này có ý nghĩa rất quan trọng để nghiên cứu cuộc sống hàng ngày của cư dân vùng núi Alps, thời đại đồ đồng.
Sau khi phân tích các đồ vật kể trên, các nhà khoa học thuộc Đại học Rome (Italy) và Đại học Kansas (Mỹ) cho rằng, người băng Oetzi không chết một cách cô độc và thảm khốc tại vùng núi Alps, mà đã được tôn kính và an táng long trọng như một người chiến binh.
Quan điểm mới trên có thể giúp giải thích một số điều chưa rõ xung quanh cái chết của người băng Oetzi.
Tuy nhiên, một số chuyên gia vẫn chưa đồng tình với quan điểm trên và cho rằng, cần phải có nhiều nghiên cứu thực địa nữa mới có thể đưa ra được kết luận khoa học.

Chó nhớ tên 1.022 đồ vật


Con chó Chaser, thuộc nòi chó xù, được cho là khá thông minh vì có khả năng biết tên của 1.022 đồ vật, theo thông tin đăng trên tạp chí Behavioural Processes (Tiến trình hành vi).
Con Chaser đã được huấn luyện chuyên sâu ở mức nhiều giờ một ngày suốt ba năm, để có thể đáp trả lệnh miệng bằng cách đem đến một đồ vật cụ thể giữa nhiều đồ vật khác.

Con chó Chaser (Ảnh: AFP)
Ngày 7-1, tiến sĩ Alliston Reid và John Pilley - giáo sư tâm lý học tại Trường Wofford ở bang Nam Carolina (Mỹ), những người thực hiện thí nghiệm - nói rằng con chó này không chỉ nhớ tên 1.022 đồ vật như quả bóng, thú nhồi bông... mà còn phân loại chúng theo chức năng và hình dạng, điều mà trẻ em 3 tuổi có thể làm được. Do đó, Chaser mang lại cho người yêu cầu các quả bóng có kích cỡ và màu sắc khác nhau, nằm giữa nhiều đồ vật khác nhau.
Các nhà nghiên cứu cho rằng, Chaser nhớ tên nhiều đồ vật nhờ cường độ huấn luyện liên tục mà không cần cho phần thưởng là thức ăn mỗi khi nó thành công trong huấn luyện. Chaser cũng phá kỷ lục của con chó Rico với khả năng nhận biết tên của 200 đồ vật hồi năm 2004, theo các nhà nghiên cứu của Viện Max Planck ở Đức.

Chim chết hàng loạt vì say


Hàng loạt xác chim rơi xuống đất ở miền đông Romania và giới chức xác định chúng chết do ăn quá nhiều bã nho lên men.

Những xác chim chết ở ngoại ô thành phố Constanta, Romania. (Ảnh: allvoices.com).
Người dân thành phố cảng Constanta, Romania phát hiện vài chục xác chim sáo ở khu vực ngoại ô thành phố hôm 8/01. Họ thông báo sự việc tới chính quyền do lo ngại chim chết vì cúm gia cầm, BBC đưa tin.
Sau khi khám nghiệm xác chim, giám đốc cơ quan vệ sinh dịch tễ và thú y thành phố nói với hãng thông tấn Agerpres rằng những con chim chết vì ngộ độc cồn. Trước khi chết chúng ăn bã nho – thứ bị thải ra trong quá trình sản xuất rượu vang. Do ăn quá nhiều bã nho nên chúng rơi vào trạng thái say và rơi xuống.
Hàng loạt vụ chết tập thể của chim xảy ra tại Mỹ và Thụy Điển trong hai tuần gần đây. Giới chức Mỹ cho rằng pháo hoa trong đêm cuối cùng của năm 2010 giết chết khoảng 5.000 chim hét cánh đỏ tại bang Arkansas, còn các chuyên gia Thụy Điển nhận định gần 100 con quạ chết trong một thị trấn do bị phương tiện cơ giới cán.

Tìm ra lộ trình của Cái chết Đen


Cái chết Đen từng gây nên một trong những thảm họa khủng khiếp nhất trong lịch sử loài người và giết chết vài chục triệu người thời trung cổ, song mãi tới nay các nhà khoa học mới phát hiện được quá trình lây lan của nó.

Một tranh minh họa cảnh tượng chết chóc của một thành phố tại châu Âu khi bệnh dịch hạch bùng phát thời trung cổ. Ảnh: deathreference.com.
Cái chết Đen là tên gọi của bệnh dịch hạch ở châu Á và châu Âu từ thế kỷ 14 tới thế kỷ 18. Dịch bùng phát tới hơn 100 lần tại châu Âu trong giai đoạn này. Đây là một trong những đại dịch khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại. Giới khoa học cho rằng nó giết chết 75 triệu người trên thế giới, trong đó từ 25 tới 50 triệu người thuộc châu Âu.

Biểu hiện của bệnh là hạch nổi khắp cơ thể. Khi những mạch máu trong các hạch vỡ, máu khô và biến thành những cục màu đen cản trở sự lưu thông máu. Do sự hiện diện của những cục máu đen trên cơ thể nạn nhân mà thời đó người ta gọi dịch bệnh đáng sợ là Cái chết Đen. Hiện tượng chảy máu trong cũng xuất hiện ở các cơ quan nội tạng như gan, phổi và dẫn đến tử vong. Bệnh có thể lây từ người này sang người khác qua đường hô hấp và dịch đường hô hấp.

Discovery cho biết, từ lâu giới khoa học đã nghi ngờ một loại vi khuẩn có tên Yersinia pestisgây nên Cái chết Đen, song họ vẫn chưa biết bệnh xuất phát từ đâu và lây lan khắp thế giới bằng cách nào. Nhiều giả thuyết được đặt ra, chẳng hạn như vi khuẩn có nguồn gốc từ Trung Quốc hoặc Trung Á, sau đó chúng tới châu Âu bằng đường biển nhờ các thuyền buôn, hoặc theo các đoàn thương nhân châu Á sang châu Âu.

Theo AFP, một nhóm nghiên cứu gồm các nhà khoa học tới từ Anh, Ireland, Trung Quốc, Đức, Pháp, Madagascar và Mỹ lập bản đồ gene của 17 chủng vi khuẩn Yersinia pestis để tìm ra tổ tiên chung của chúng. Khi tìm ra tổ tiên chung của Yersinia pestis, các nhà khoa học sẽ xác định được nơi xuất phát của bệnh dịch hạch cũng như lộ trình của nó.

Kết quả cho thấy tổ tiên chung của 17 chủng vi khuẩn Yersinia pestis có nguồn gốc từ Trung Quốc.

Dịch xuất hiện ở Trung Quốc cách đây hơn 2.600 năm. Sau đó nó bắt đầu lan sang Tây Âu rồi châu Phi qua Con đường tơ lụa từ khoảng 600 năm trước. Bệnh sang Mỹ thông qua quần đảo Hawaii trong giai đoạn cuối thế kỷ 19. Nó tới bang California qua các cảng tại thành phố San Francisco và Los Angeles trước khi tiến sâu vào lãnh thổ Mỹ ”, Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Pháp, một cơ quan tham gia nghiên cứu, tuyên bố.

Vi khuẩn Yersinia pestis tồn tại trên cơ thể nhiều loài động vật thuộc bộ gặm nhấm, trong đó có chuột. Chúng lây lan từ con vật này sang con vật khác nhờ bọ chét. Nếu bọ chét hút máu của một con vật nhiễm vi khuẩn rồi lại hút máu người thì bệnh sẽ lây sang người.

Sự tàn phá khủng khiếp của Cái chết Đen đã dẫn đến nhiều thay đổi lớn trong xã hội châu Âu như sự ra đời của nhiều tôn giáo mới hay sự chuyển đổi về cơ bản về kinh tế và xã hội. Những thay đổi ấy tạo ra những ảnh hưởng sâu sắc tới tiến trình lịch sử của châu Âu. Các nhà khoa học tính toán rằng châu Âu phải mất tới 150 năm để phục hồi dân số như trước thời gian đại dịch. Sau này dịch hạch còn nhiều lần bùng phát trở lại tại đây và nó chỉ biến mất vào thế kỷ 19.

Con đường tơ lụa bắt đầu từ Phúc Châu, Hàng Châu, Bắc Kinh (Trung Quốc) qua Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, vùng Địa Trung Hải và đến tận châu Âu. Nó có chiều dài khoảng 7.000 km.

Leonardo da Vinci vẽ tranh nàng Mona Lisa ở đâu?


Các nhà khoa học người Italia đã phát hiện ra những con số bí mật trong bức tranh nàng Mona Lisa của họa sĩ nổi tiếng Leonardo da Vinci giúp xác định được bối cảnh gốc của bức tranh nổi tiếng nhất thế giới này.
Các nhà khoa học người Italia tin rằng cây cầu 3 vòm xuất hiện trong bức tranh nổi tiếng nàng Mona Lisa thuộc ngôi làng Bobbio ngày nay. Ngôi làng này nằm ở vùng trung du thuộc miền nam của thành phố Piacenza (Italia).

Bức trang nàng Mona Lisa
Kết quả này được đưa ra sau khi nhà sử học Carla Glori cùng với một nhà sử học khác là Silvano Vinceti tiến hành nghiên cứu những bí ẩn của cây cầu trong bức tranh nàng Mona Lisa của họa sĩ nổi tiếng Leonardo da Vinci.
Nhóm nghiên cứu đã phát hiện thấy rằng, cây cầu này dường như ẩn chứa hai chữ số 7 và 2. Tiến sĩ Carla Glori tin rằng hai chữ số này nhắc tới năm 1472 – năm cây cầu ở ngôi làng Bobbio bị lũ cuốn trôi, bà cho biết: "Họa sĩ Leonardo da Vinci đã thêm chữ số 72 dưới cây cầu trong bức tranh nàng Mona Lisa để ghi nhớ năm cây cầu bắc qua sông Trebbia bị lũ cuốn trôi
Mới đây, Silvano Vinceti, chủ tịch Ủy ban quốc gia về di sản văn hóa Ý cũng khẳng định rằng ẩn giấu đằng sau đôi mắt của nàng Mona Lisa là một mật mã bí ẩn gồm các chữ cái và con số.
Trong mắt phải của nàng Mona Lisa ẩn chứa hai chữ cái LV. Đây có thể là viết tắt tên của họa sĩ Leonardo Da Vinci. Ở mắt trái của bức chân dung, cũng có những biểu tượng nhỏ nhưng rất khó để xác định đây là chữ cái CE hay là B”, ông Silvano Vinceti.

Mùa hè ấm áp khiến cho Đế chế La Mã thịnh vượng


Một nghiên cứu mới của Viện Nghiên cứu Liên bang Thụy Sĩ vừa được tạp chí Science của Mỹ công bố cho thấy những mùa hè ấm áp có lẽ là chìa khóa cho sự thịnh vượng của Đế chế La Mã lúc bấy giờ.
Pháo đài của đế chế La Mã cổ
Trong khi tình trạng hạn hán kéo dài, các đợt rét đột ngột cùng với những thay đổi khí hậu khác có lẽ là một phần lý do gây nên những biến động lịch sử, từ cuộc xâm lược của người dã man (barbarian) dẫn đến sự sụp đổ của Đế chế La Mã cho đến đại dịch "Cái chết Đen" (bệnh dịch hạch) đã quét sạch gần nửa dân số châu Âu vào năm 1347.
Chuyên gia về cổ khí hậu học Ulf Buntgen, người đứng đầu nhóm nghiên cứu trên, cho biết: "Nhìn lại 2.500 năm về trước, chúng ta hiện có những mẫu vật cho thấy sự biến đổi khí hậu đã tác động đến lịch sử loài người".
Ulf Buntgen và các đồng nghiệp đã thiết lập được một cơ sở dữ liệu gồm hơn 9.000 mẫu gỗ có niên đại cách đây 2.500 năm, chủ yếu thu thập từ Pháp và Đức trong hơn 30 năm qua.
Để có được mức nhiệt độ hàng năm, các nhà khoa học đã đo vòng tăng trưởng của các cây thông lọng sống ở vùng cao, trong khi để xác định lượng mưa, họ xem xét vòng tăng trưởng của những cây sồi sống ở vùng thấp.
Những kết quả trên là một hồ sơ để xác định thời tiết ở Pháp và Đức trong khoảng thời gian 2.500 năm về trước. Vào những thời điểm xã hội ổn định và thịnh vượng, như giai đoạn thịnh vượng của Đế chế La Mã từ năm 300 trước Công nguyên cho đến năm 200 sau Công nguyên, châu Âu đã trải qua những mùa hè ấm áp, ẩm ướt vốn rất lý tưởng cho phát triển nông nghiệp.
Những điều kiện tương tự cũng đã diễn ra vào những năm đỉnh cao của châu Âu thời Trung cổ từ giữa năm 1000 và 1200 sau Công nguyên.
Nghiên cứu còn cho thấy, biến đổi khí hậu và thảm họa thường song hành với nhau. Trong thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, các đợt hạn hán kéo dài đã xảy ra đồng thời với những cuộc xâm lược của người dã man cũng như các biến động chính trị ở châu Âu. Trong khi vào khoảng năm 1300 sau Công nguyên, một đợt rét đột ngột kết hợp với những mùa hè ẩm ướt đã diễn ra trùng hợp với các nạn đói cũng như đại dịch "Cái chết Đen."
Chuyên gia về khoa học Trái Đất David Stahle thuộc Đại học Arkansas cho rằng, nghiên cứu trên đã cung cấp một bằng chứng đặc biệt mới để hiểu thêm về lịch sử của các xã hội loài người. Trong các kỷ nguyên thịnh vượng, cây cối được khai thác nhiều để xây dựng nhà cửa và làm nhiên liệu, dẫn đến việc các nhà khảo cổ học ngày nay sẽ thu thập thêm được nhiều mẫu gỗ hơn.
Tại những thời kỳ khác, như những năm sau đại dịch "Cái chết Đen" và cái gọi là "Giai đoạn Di cư" từ giữa năm 300 và 600 sau Công nguyên, số mẫu gỗ giảm xuống gần như bằng không. "Đó là một thước đo các xu hướng nhân khẩu học thú vị và thực sự là phần nổi bật nhất của nghiên cứu trên," Stahle kết luận.
Mặc dù những sự tương quan trên chưa chứng tỏ điều gì nhiều, nhưng các phát hiện mới đã giúp cho thấy cách thức tác động của khí hậu như là một trong những nhân tố đã làm thay đổi bộ mặt của Đế chế La Mã lúc bấy giờ.

Tìm ra bí ẩn cái chết của Người Voi


Các nhà khoa học đã tìm ra nguyên nhân thực sự dẫn đến cái chết của ông Joseph Merrick, được mệnh danh là Người Voi, là do sức nặng của cái đầu to quá khổ đã nghiền nát tủy sống của ông.
Ông Joseph Merrick (người Anh) đã mắc một chứng bệnh hiếm gặp khiến đầu ông to bất thường. Cái đầu của ông quá nặng. Vì vậy, các bác sĩ thời đó cảnh báo, nếu nằm xuống để ngủ như một người bình thường thì ông Merrick sẽ chết do nghẹt thở. Do đó, ông luôn phải ngủ ngồi, hai chân co lên để cái đầu to kì dị của mình được tựa lên hai đầu gối.

Ông Joseph Merrick, được mệnh danh là Người Voi, chết do sức nặng của cái đầu đã nghiền
nát tủy sống. (Ảnh: sabtheartist)
Vì vậy, khi ông Merrick được phát hiện đã chết trên giường vào năm 1890, ở tuổi 27, bác sĩ của ông – chuyên gia phẫu thuật Frederick Treves ở Bệnh viện London (Anh) – tin rằng, ông Merrick chết là do nghẹt thở sau khi đã cố gắng ngủ giống như người bình thường.
Song bây giờ, các nhà khoa học đã chứng minh được rằng, chính trọng lượng của cái đầu quá khổ của Merrick đã nghiền nát tủy sống và gây ra cái chết của ông.

Diễn viên John Hurt trong vai người đàn ông mệnh danh Người Voi. (Ảnh: Daily Mail)
Trong một bộ phim tài liệu trên kênh truyền hình Discovery Channel mới đây, một bác sĩ phẫu thuật của Bệnh viện Đại học Thomas Jefferson ở Philadelphia (Mỹ) là Alex Vaccaro cho biết chính trọng lượng của cái đầu đã nghiền nát tủy sống và gây ra cái chết bất thường của ông Merrick. Bác sĩ Vaccaro cho rằng, đây mới là nguyên nhân chính khiến ông Merrick tử vong vì ông Merrick có các bắp thịt vùng cổ phát triển rất tốt và săn chắc do phải mang cái đầu khổng lồ.
Bác sĩ Vaccaro đã tiến hành chụp cắt lớp bộ xương của ông Merrick, tái tạo mô hình của nó trên máy vi tính và phát hiện những đốt sống bị méo mó. Bác sĩ Vaccaro tin rằng, điều này là do khi ông Merrick cố gắng nằm xuống, cái đầu nặng hơn 9kg của ông đã bị rơi mạnh xuống giường, làm đứt gãy tủy sống.
Nghiên cứu gần đây cho thấy, ông Merrick đã mắc phải Hội chứng Proteus, một căn bệnh hiếm gặp, khiến da, xương và các bắp thịt phát triển quá mức bình thường.
Cái chết của ông Merrick khiến mọi người rất thương cảm. Và bi kịch của Người Voi đã trở thành chủ đề của một bộ phim khá ăn khách vào năm 1980. Diễn viên John Hurt đã vào vai nhân vật Người Voi trong bộ phim này.

Bé gái có 14 ngón chân


Với 12 ngón tay và 14 ngón chân, một bé gái Myanmar có thể được ghi tên vào Sách Kỷ lục Guinness.


Bé gái Lei Yadi Min sở hữu 12 ngón tay và 14 ngón chân. (Ảnh: EPA)
Báo Messenger News của Myanmar cho hay, Lei Yadi Min – một bé gái hơn 12 tháng tuổi – có 6 ngón trên mỗi tay và 7 ngón trên mỗi chân. Min đang sống cùng mẹ và chị tại thành phố Yangon. Khả năng cô bé được Sách Kỷ lục Guinness ghi nhận là người có nhiều ngón chân và tay nhất thế giới vào năm 2012 là rất cao.
Theo Xinhua, hiện tại danh hiệu này thuộc về hai đứa trẻ Ấn Độ. Cả hai có 12 ngón tay và 13 ngón chân. Đối thủ của Min trong cuộc đua giành danh hiệu cũng là một công dân Ấn Độ. Người này có 16 ngón chân.
Trong khi đó, U Khun Sai Maung Maung Gyi, một người 68 tuổi tại Myanmar, vừa yêu cầu được ghi tên vào Sách Kỷ lục Guinness về số lần hiến máu. Ông bắt đầu hiến máu vào tháng 2/1956. Từ đó tới tháng 8/2010, ông đã hiến máu tổng cộng 204 lần.

Bí ẩn những phận người chết đi sống lại


Trong khi tất thảy gia đình đang đau đớn, tiếc thương người quá cố thì bỗng nhiên từ trong quan tài phát ra những tiếng bịch bịch… Dù là người cứng vía cũng đứng tim vì sợ hãi.
Đang khâm liệm, bỗng nhiên bật dậy xin thuốc lào
Câu chuyện về những người chết đi sống lại ở Việt Nam không phải là hiếm, song khó tin và vô cùng thần bí. Hầu hết những người may mắn sống lại đều chết sau đó một thời gian ngắn, tuy nhiên cũng có trường hợp cá biệt sống thêm được tới vài chục năm.
Cho đến nay trường hợp “hồi sinh” xảy ta tại phường 2, TP. Tân An (Long An) vào trung tuần tháng 6/2010 vẫn là một câu chuyện được nhiều người nhắc tới với vẻ thần bí khó hiểu. Anh Nguyễn Thanh Hùng (37 tuổi, ngụ phường 2) sau một hồi mua rượu về lai rai, bỗng nhiên kêu đau ở vùng bụng và có hiện tượng nôn ói.

Anh Hùng chết thật sau 1 tháng sống lại (Ảnh: CATP.HCM).
Đến khám bệnh viện, các bác sĩ cho biết, anh Hùng bị ung thư túi mật giai đoạn cuối, có dấu hiệu di căn sang một số bộ phận khác trong cơ thể, rất khó qua khỏi. Lo lắng cho sức khỏe của anh Hùng, người nhà liên tục tìm thầy, chạy chữa thuốc thang với hy vọng mong manh kéo dài sự sống.
Tuy nhiên, đến 17h ngày 14/6, sau bữa cơm chiều, bà Kim, mẹ anh Hùng thấy con nằm im không cử động, tưởng con ngủ nên kéo chăn định đắp thì phát hiện anh Hùng đã tắt thở từ bao giờ, da đã có dấu hiệu tái nhợt.
Thấy vậy, mọi người xúm lại đưa thi thể anh Hùng lên bộ ván và che lại bằng một chiếc màn mỏng, trên bụng đặt nải chuối, trên phía đầu đặt bát cơm, quả trứng vịt chờ vợ bán hàng ở Vũng Tàu về nhìn mặt lần cuối.
6 tiếng sau, trong lúc cả gia đình đang ngồi bàn việc tang ma thì bất ngờ anh Trí, em trai anh Hùng chợt thấy tiếng động, bàn tay anh Hùng chạm vào tay anh lay nhẹ. Dù sợ hãi, nhưng nghĩ mình nhầm nên anh Trí ngồi yên chưa dám nói với ai. Bất chợt anh Hùng ho mạnh, nải chuối trên bụng rơi xuống, rồi đột nhiên ngồi phắt dậy, nhìn quanh và nói “Cho tao xin điếu thuốc lào”… Sự việc khiến tất thảy những người có mặt kinh hãi, một số người bỏ chạy vì cho rằng thi thể anh Hùng bị ma nhập..
Tuy nhiên, anh Hùng sống được đến ngày 15/7 thì qua đời.
Gần đây nhất, vào tháng 7/2010 còn có trường hợp của bà Nguyễn Thị Dí (67 tuổi, Đông Thạnh, Hóc Môn, TP.HCM) chết đuối hơn 8 tiếng đồng hồ thì… hồi sinh.

Bà Dí (phải) đã từng chết đi sống lại (Ảnh: An ninh thế giới).
Trong khi phần lớn những người sống lại chỉ sống được một thời gian ngắn, thì một số khác lại sống thêm được tới vài chục năm, có người hưởng thọ đến 90 tuổi mới qua đời.
Người dân xã Bảo Ninh, Đồng Hới, Quảng Bình nhiều năm nay vẫn còn truyền tai câu chuyện của bà Nguyễn Thị Kỳ, người chết đi sống lại nhiều lần.
Bà Kỳ sinh năm 1898, có 10 người con. Năm 1950 đột nhiên ốm nặng, sau 2 tuần thì mất. Tuy nhiên, khi cô con gái lấy chồng xa về nhìn mặt mẹ lần cuối thì bỗng nhiên bà Kỳ bật dậy hỏi “làm gì mà tụ tập đông thế? Hôm nay cúng ai mà có hương đèn?”.
Từ đó bà Kỳ sống thêm được 31 năm, thọ 83 tuổi mới ra đi.
Một số trường hợp khác như bà Phạm Thị Châu (Đồng Hải, Đồng Hới, Quảng Bình) cũng đã từng qua đời ở tuổi 79 vào năm 1992, nhưng sau đó sống lại được thêm đến 11 năm. Hay như trường hợp của bà Ban (83 tuổi, Nghi Xuân, Hà Tĩnh) dù đã được đắp chiếu suốt một đêm chờ khâm liệm nhưng sáng hôm sau vẫn nhúc nhích, rồi lồm cồm bò dậy và hiện vẫn sống cùng với con gái…
Chuyện thật hay đùa?
Các công trình nghiên cứu đã khẳng định hiện tượng chết đi sống lại có thật 100%. Thậm chí, các số liệu thống kê còn chỉ rõ cứ 100.000 người chết thì có 1 người được cho là sống lại.
Dù vậy, hiện tượng này đến nay vẫn là một trong những bí ấn của ngành khoa học và đang được nghiên cứu dài lâu. Điều lạ lùng ở chỗ phần lớn những người sau khi sống lại đều có thể kể rành rọt về những ảo ảnh họ đã nhìn thấy, đó có thể là ánh sáng ở cuối một con đường chật hẹp, một sinh vật tỏa ánh sáng có khả năng chuyện trò, một người thân quá cô đang đứng đón, gọi họ ở bờ bên kia… Thậm chí, một số người còn kể được chi tiết lại toàn bộ quá trình mình “nằm ngủ” mọi người đã làm gì.
Ở một số trường hợp đã được chôn cất, người ta cũng từng phát hiện thấy những vết cào cấu bên trong quan tài khi cải táng, rồi hiện tượng xương người nằm với hình dáng bất thường dù lúc đặt quan rất ngay ngắn. Điều đó chứng tỏ, không ít người ngay cả khi đã bị vùi sâu trong đất vẫn sống lại.
Giải thích về hiện tượng này, y học cho rằng có hai hình thái cơ bản của cái chết đó là chết lâm sàng và chết thật sự. Trong đó, những người sống lại chủ yếu rơi vào trường hợp thứ nhất Khi đó, con người ở trạng thái lâm sàng đã ngừng thở nhưng hoạt động của não bộ vẫn còn, đồng nghĩa điện não đồ vẫn còn ghi nhận những sóng đặc trưng cho sự sống.
Lý giải việc người hồi sinh nói rằng đã thấy được thế giới bên kia, khoa học cho rằng sở dĩ có được những trải nghiệm lạ này là do cách xử lý thông tin của bộ não. Những gì chúng ta đang thấy trong thực tế chính là tổng hợp những thông tin mà các cơ quan thụ cảm của cơ thể tiếp nhận được. Khi tiếp nhận những thông tin này, bộ não sẽ “dịch” chúng ra và sau đó cho chúng cho ta biết ta đang ở đâu, đang nhìn thấy gì…
Các công trình nghiên cứu cũng chỉ rõ, thực chất cái được gọi là “linh hồn” của người chết chính là dòng điện sinh học trong cơ thể. Khi quan sát dưới ánh sáng lazer, chúng là những đám bụi nhỏ, sáng rực, thoát ra khỏi cơ thể.

Người đột biến và bí mật của trường thọ


Những người sống tại các ngôi làng xa xôi ở Ecuador mắc một dạng đột biến có thể giúp khám phá bí mật của sự trường thọ, theo các chuyên gia về sinh vật học.
Một người mắc chứng Laron (thứ hai từ trái qua) và các con tại Ecuador. (Ảnh: NYT)
Dân làng ở đây có vóc dáng nhỏ bé, không đến 1m chiều cao, và mắc chứng đột biến hiếm hoi gọi là triệu chứng Laron, hoặc còn gọi là người lùn dạng Laron. Họ có thể là hậu duệ của người Do Thái
Serphadi từ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Điểm đặc biệt là hầu hết người đột biến Laron đều miễn nhiễm trước 2 căn bệnh có liên quan đến tuổi tác là ung thư và tiểu đường.
Sau khi tình cờ phát hiện những người đặc biệt này vào năm 1987, tiến sĩ Jaime Guevara-Aguirre, bác sĩ và chuyên gia tiểu đường của Ecuador, đã bỏ ra 24 năm nghiên cứu một nhóm gồm 99 dân làng bị triệu chứng Laron. Suốt thời gian dài, tiến sĩ Guevara-Aguirre cập nhật dữ liệu sức khỏe của nhóm người này và phát hiện họ không mắc bất kỳ chứng bệnh ung thư nào. Và họ cũng chẳng bao giờ bị tiểu đường dù nhiều người có bề ngoài béo phì.
Theo The New York Times, thông tin trên từ tiến sĩ Guevara-Aguirre đã mở ra cơ hội vàng đối với các nhà khoa học chuyên tìm kiếm suối nguồn của sự bất tử như Valter D.Longo, chuyên gia của Đại học Nam California (Mỹ). Kết quả nghiên cứu sau đó cho thấy, bệnh nhân Laron bị đột biến ở gen tạo nên thụ quan của hormone tăng trưởng, khiến nó không tương tác được với hormone này. Hậu quả là họ không tăng trưởng được chiều cao như người bình thường khi đạt đến tuổi dậy thì. Bù lại với chiều cao khiêm tốn, người lùn Laron khỏe mạnh và sống lâu hơn nhiều.
Khi áp dụng những khám phá ở người lùn Laron vào động vật ở phòng thí nghiệm, kết quả hết sức khả quan. Tuổi thọ ở vật thí nghiệm được kéo dài bất thường và chúng không mắc bệnh do tuổi tác. Ví dụ, một con chuột ở Đại học Nam Illinois đã sống lâu gấp đôi tuổi thọ bình thường ở loài chuột sau khi bị đột biến như người Laron. Hiện tiến sĩ Guevara-Aguirre và Longo đã tìm được cách duy trì được kết quả tích cực trên mà vẫn giúp người bị chứng Laron thoát khỏi tình trạng lùn vĩnh viễn. Chỉ cần được chích hormone tăng trưởng trước tuổi dậy thì, các bệnh nhân này sẽ gần như có thể phát triển chiều cao như thường.

Sự thật về cái chết của nhà bác học Darwin


Tại buổi họp báo y tế thường niên được tổ chức tại Maryland (Mỹ), các nhà khoa học đã suy đoán rằng nhà bác học người Anh Charles Darwin đã mắc bệnh Chagas khi đi vòng quanh thế giới và căn bệnh này đã hành hạ ông trong suốt một thập kỷ cho tới khi qua đời.
Charles Robert Darwin (1809-1882) đã bắt đầu chuyến du lịch vòng quanh thế giới kéo dài 5 năm từ khi ông 20 tuổi để quan sát và ghi chép lại về các loại động thực vật hoang dã, sau đó ông đã cho ra đời cuốn sách "Nguồn gốc muôn loài". Trong suốt cuộc đời nghiên cứu của mình, Darwin đã gặp phải nhiều vấn đề về sức khoẻ như ăn xong nôn ra nước có tính axít, đánh trống ngực và đau đầu trầm trọng. Ông từng bị chẩn đoán là bị tâm thần phân liệt, trầm cảm và viêm ruột thừa.
Vì vậy, những căn bệnh của Dawin trở thành chủ đề chính cuộc họp thường niên lần này. Những cuộc họp y tế thường niên như vậy nhằm dùng khoa học hiện đại để chẩn đoán nguyên nhân cái chết cũng như bệnh tật của các danh nhân thế giới. Trước đó, đã từng có cuộc họp chẩn đoán bệnh của Alexander Đại đế, nhà soạn nhạc Mozart và nhà sư phạm người Mỹ gốc Phi Booker T. Washington.

Charles Robert Darwin (1809-1882) (Ảnh: guardian.co.uk).
Mặc dù lúc Dawin còn sống và sau khi ông mất, các bác sỹ đã tiến hành rất nhiều chẩn đoán nhưng giáo sư Sidney Cohen (Đại học Thomas Jefferson) chỉ ra rằng trong đó có cả những chẩn đoán không chính xác. Trong cuộc họp thường niên năm nay, ông đã xác định 3 căn bệnh mà Dawin mắc phải đó là: hội chứng nôn mửa theo chu kỳ, bệnh Chagas (một bệnh ký sinh trùng nhiệt đới) và nhiễm khuẩn Helicobacter pylori (một loại xoắn khuẩn gram âm gây viêm, loét dạ dày, tá tràng).
Giáo sư Sidney Cohen kết luận Darwin đã mắc hội chứng nôn mửa theo chu kỳ từ lâu nhưng ông vẫn duy trì dinh dưỡng và trọng lượng cơ thể bình thường vì ông ít khi nôn ra thức ăn mà chỉ nôn ra nước có tính axít và các chất gây tiết khác.
Tuy nhiên, chính chuyến du lịch với mong muốn tạo ra lý thuyết tiến hoá và sinh vật học hiện đại đã khiến Darwin mắc phải một căn bệnh chết người, bệnh Chagas. Trong những bài thơ của mình, Darwin cũng từng để cập tới việc ông bị côn trùng T. cruzi cắn khi tới Argentina và loại côn trùng này có thể mang mầm bệnh. Sau khi bị côn trùng T.cruzi đốt, Darwin đã bị lên cơn sốt và xuất hiện các triệu trứng của bệnh Chagas. Giáo sư Sidney Cohen tin rằng bệnh Chagas mà Darwin mắc phải thường đi kèm với bệnh nhiễm khuẩn Helicobacter pylori, dẫn đến loét dạ dày. Bệnh Chagas, bệnh tiêu hoá và bệnh tim đã hành hạ Darwin trong suốt những năm cuối đời.

Giải mã lý do con người có thể nhớ các giấc mơ


Các nhà khoa học Italy cho biết họ vừa xác định được những vùng não có thể giúp con người ghi nhớ các giấc mơ sinh động.

Ảnh mang tính minh họa. (Nguồn internet)
Nhà khoa học Luigi De Gennaro thuộc Đại học Tổng hợp Rome, điều phối viên nhóm nghiên cứu, nói rằng nhóm ông đã xác định được những vùng của thùy "hạnh nhân" (Amygdala) và thùy "cá ngựa" (Hippocampus) có mối liên hệ với những giấc mơ kỳ lạ và sống động mà con người thường ghi nhớ.

Thùy hạnh nhân là vùng có hình dạng giống một hạt hạnh nhân, chuyên xử lý cảm xúc và giúp ghi khắc ký ức liên quan tới cảm xúc. Thùy "cá ngựa" là một cấu trúc nguyên thủy nằm sâu trong não và giữ vai trò lớn nhất trong việc xử lý tin tức dưới dạng ký ức.

Ông De Gennaro nhấn mạnh: "Chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi đã giải mã được lý do tại sao một số người không bao giờ nhớ được giấc mơ của mình, trong khi những người khác thì lại nhớ một cách chi tiết các giấc mơ giống hệt như phim."

Trong nghiên cứu nói trên, được công bố trên tạp chí Human Brain Mapping, các nhà khoa học Italy đã sử dụng các kỹ thuật chụp hình hệ thần kinh (neuro-imaging techniques) mới nhất nhằm phân tích những cấu trúc vi mô nằm sâu trong hai vùng não quan trọng này.

Phát hiện quần thể cá voi nhỏ nhất thế giới


Các nhà khoa học vừa phát hiện một quần thể cá voi được cho là nhỏ nhất thế giới sinh sống tại phía đông bắc Thái Bình Dương. Tuy nhiên, điều đáng lo lắng là số lượng loài chỉ còn 30 cá thể.

Theo một báo cáo từ những năm 1800, ít nhất đã có tới 23.000 cá thể, sinh sống từ Bắc Mỹ đến vùng biển Okhotsk và Nhật Bản. Nhưng theo nghiên cứu vừa công bố, hiện nay chỉ còn lại 8 cá voi cái và 20 - 22 cá voi đực tồn tại ở đông bắc Thái Bình Dương. Có thể làm một phép tính đơn giản cho thấy, sau 200 năm, số lượng cá voi đã giảm tới 1.000 lần.

Paul Wade, trưởng nhóm nghiên cứu nói: “Với một số lượng nhỏ như vậy và rất ít những con cái, chúng ta không thể dự đoán được lượng cá voi sẽ tăng hay giảm. Xu hướng này có thể là đi lên hoặc ngược lại. Trong những điều kiện lý tưởng, số lượng cá voi có thể sẽ tăng lên ít nhất vài % một năm. Tuy nhiên, khả năng này là khó xảy ra với một quần thể như vậy”.

Wade là một nhà nghiên cứu sinh học làm việc tại Phòng thí nghiệm Quốc gia về Động vật biển có vú tại Trung tâm Khoa học Thủy sản Alaska và những đồng nghiệp của ông đã tiến hành nhiều biện pháp khác nhau.
Số lượng cá thể loài cá voi lớn Bắc Thái Bình Dương đang giảm sút nghiêm trọng. Khả năng bảo tồn loài vật này gặp nhiều khó khăn.

Cá voi là loài động vật biển có vú lớn nhất thế giới, với chiều dài có thể đạt tới 20m. Thức ăn chủ yếu là những loài động vật giáp xác nhỏ như động vật thuộc bộ châm kiếm. Với kích thước lớn và một vài lý do khác mà con người không thể nuôi dưỡng chúng và những loài động vật phiến sừng khác.

Qua việc phân tích và quan sát những hình ảnh sơ bộ, các nhà nghiên cứu vẫn nhận thấy số lượng thu được ở tất cả những lần kiểm tra đều giống nhau: chỉ có khoảng 30 con cá voi tồn tại.

Theo Wade, tình trạng cá voi không ổn định như ngày nay là “hậu quả trực tiếp” của việc đánh bắt cá voi không được kiểm soát và bất hợp pháp cũng như nêu bật những thất bại trong quá khứ của các tổ chức quản lý quốc tế để ngăn chặn sự khai thác quá mức.

Howard Rosenbaum, một nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm Bảo tồn Động vật hoang dã và Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên của Mỹ tin rằng, cá voi Bắc Thái Bình Dương là một trong những loài cá voi có nguy cơ tuyệt chủng lớn nhất thế giới.

Năm năm trước đây, Rosenbaum đã tiến hành những nghiên cứu ADN để chứng minh rằng cá voi lớn tồn tại ba quần thể di truyền khác nhau. Quần thể cá voi nhỏ thứ hai thế giới có thể cũng đang ở tình trạng cực kỳ nguy cấp là quần thể cá voi xám. Hiện tại, ước tính chỉ khoảng 100 cá thể còn sinh sống.

Một số vấn đề nghiêm trọng khác cần phải đối mặt là những con cá voi ở Thái Bình Dương chưa có được sự quan tâm của công chúng. Một số ít cá thể sống tại những khu vực xa xôi, nằm ngoài sự kiểm soát của con người, nên cần nhiều nỗ lực hơn để cứu chúng. 

Các loài cá voi, cá heo có nguy cơ bị diệt vong


Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) và Liên minh quốc tế bảo tồn thiên nhiên (IUCN) vừa lên tiếng báo động về số lượng các loài cá voi và cá heo đang giảm nhanh trên toàn cầu do hoạt động đánh bắt hải sản của con người.
Theo UNEP và IUCN, các loài cá voi có răng đang bị suy giảm mạnh nhất vì bị thương và chết do bị vướng vào các phương tiện đánh bắt hải sản như lưới rà, bẫy, đăng và lưới kéo.

Thiếu thức ăn và buộc phải thay đổi nguồn thức ăn hàng ngày do các loài cá vốn là thức ăn của cá voi đã bị khai thác cạn kiệt hiện cũng là mối đe dọa sống còn đối với 13 loài cá voi trên biển và đại dương.

Lần đầu tiên, IUCN và Công ước bảo tồn các loài động vật hoang dã di trú (CMS) đã đưa 72 loài cá voi có răng vào danh sách các loài cần được bảo vệ.

Theo Thư ký chấp hành CMS Elizabeth Mrema, trong Năm quốc tế đa dạng sinh học 2010, CMS tiếp tục cảnh báo về các nguy cơ đe dọa sự tồn vong của các loài động vật có vú trong đại dương, trong đó có cả nguy cơ do biến đổi khí hậu và đánh bắt kiểu "tận diệt".

CMS cũng kêu gọi chính phủ các nước cần tăng cường các nỗ lực bảo vệ cá voi./.

Bí ẩn những giấc mơ báo trước thảm họa


Bác sĩ tâm thần nổi tiếng John Barker đã tới ngôi làng Aberfan ở miền Nam xứ Wales ngay sau thảm họa đất đồi bị sụt lún năm 1966. Lúc đó, nửa triệu tấn rác đang được xử lý đã đổ sập xuống ngôi làng này làm 116 học sinh và 28 người khác thiệt mạng. Điều đặc biệt là có một số rất đông người đã mơ thấy trước về thảm kịch này.
Bác sĩ John Barker đã viết bài đăng trên báo để hỏi bất kỳ độc giả nào có mơ thấy trước thảm họa ở làng Aberfan. Sau đó, ông đã nhận được hơn 60 lá thư từ khắp nước Anh có nói rằng họ có linh cảm trước điều này trong giấc mơ. Một trong những giấc mơ nổi bật nhất là của cha mẹ em bé 10 tuổi bị thiệt mạng trong đống rác.
"Không còn trường học. Một cái gì đó màu đen đã đổ lên trên nó" - cha mẹ em bé mô tả về giấc mơ.

Con người có thể mơ thấy những thảm họa và cái chết ở tương lai
Một phụ nữ 54 tuổi ở Barnstaple, Devon, Anh thì cho biết, đêm trước khi xảy ra thảm họa, bà đã mơ thấy một đám trẻ bị mắc kẹt trong một căn phòng hình chữ nhật, cuối phòng có một số thanh gỗ và các em đang cố trèo qua.
Còn bà GE từ Sidcup, Kent cho biết, một tuần trước khi xảy ra vụ sạt lở, bà mơ thấy một nhóm trẻ em đang la hét và bị bao phủ bởi hàng đống than bùn.
Theo Dailymail, các cuộc điều tra của các nhóm nghiên cứu cho thấy rằng, khoảng 1/3 số người trên trái đất có thể mơ thấy trước tương lai ở một thời điểm nào đó trong đời sống. Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln mơ bị ám sát 2 tuần trước khi bị bắn chết. Nhà văn Mark Twain mơ nhìn thấy xác anh trai đang nằm trong một quan tài trước vài tuần khi anh trai ông bị chết trong một vụ nổ. Nhà văn Charles Dickens mơ thấy một phụ nữ mặc váy đỏ có tên là Napier, ngay sao đó ông được một phụ nữ mặc váy đỏ cũng có tên là Napier đến thăm.
Các nhà khoa học đã phát hiện ra con người có trung bình khoảng 4 giấc mơ mỗi đêm, mỗi giấc mơ diễn ra trong khoảng 20 phút hoặc lâu hơn. Sau đó người ta sẽ quên đi phần lớn các giấc mơ sau khi thức dậy. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp con người có thể ghi nhớ những giấc mơ. Các nghiên cứu cũng chỉ ra khoảng 80% giấc mơ là về những sự kiện tiêu cực, vì tin xấu có khả năng kích hoạt bộ nhớ tốt hơn. Điều đó giải thích tại sao rất nhiều giấc mơ là những dự báo về cái chết và tai họa.
Các giấc mơ cũng phản ánh những lo âu của con người về một vấn đề nào đó trong cuộc sống. Như 3 năm trước khi xảy ra thảm họa ở làng Aberfan, các kỹ sư đã viết thư cho các nhà chức trách để phản ánh về sự thiếu an toàn của nhà máy xử lý rác nằm ngay phía trên trường học. Có thể nhiều người cũng đã bận tâm tới điều này và lo lắng trong cả giấc mơ.

Giải mã bí ẩn của 'người nam châm'


Những "người nam châm" không phát ra lực từ, mà chỉ sở hữu làn da cực nhẵn và dính, các nhà khoa học khẳng định.

Bogdan trình diễn khả năng hút đồ vật với những chiếc thìa dính trên ngực. Ảnh: MSNBC.
Bogdan, một cậu bé 7 tuổi tại Serbia, đang thu hút sự chú ý của giới truyền thông bởi khả năng hút các vật thể. Cậu đã thể hiện khả năng trước ống kính của các nhà báo.
Livescience cho biết, Bogdan không phải là người đầu tiên được gọi là “người nam châm”. Trên thực tế, những màn trình diễn tương tự ngập tràn trên trang chia sẻ video trực tuyến YouTube. Tuy nhiên, Benjamin Radford, tổng biên tập tạp chí Skeptical Inquirer, nói rằng, những người đó không phát ra từ trường.
Khi xem những đoạn video đó, trong rất nhiều trường hợp bạn sẽ thấy người biểu diễn ngả người ra phía sau một chút. Nếu cơ thể có lực từ và lực từ đó mạnh hơn lực hút của trái đất, lẽ ra người biểu diễn có thể ngả về phía trước mà đồ vật vẫn dính trên da. Đó là một trong những lý do giúp chúng ta kết luận chẳng có từ trường nào cả”, Radford phát biểu với trang Life’s Little Mysteries.
Vậy tại sao những chiếc đĩa bằng thủy tinh và thiết bị điều khiển tivi bằng nhựa có thể gắn chặt vào cơ thể Bogdan?
Thủy tinh không phải là vật liệu có từ tính. Điểm chung của những đồ vật bằng thủy tinh và kim loại được đặt lên cơ thể Bogdan là chúng có bề mặt rất nhẵn. Chúng không chịu tác động của lực từ và những người như Bogdan không phát ra từ trường. Nhờ bề mặt cực nhẵn mà những vật đó gắn chặt vào da. Thông thường những người như thế có làn da mịn và ngực không có lông”, ông nói.
Đoạn video được công bố trên trang MSNBC cho thấy Bogdan cởi trần và lông hầu như không xuất hiện trên ngực của cậu.
Radford khẳng định các nhà khoa học thường kiểm tra cơ thể những “người nam châm” để xem họ thực sự phát ra lực từ hay không. Kết quả cho thấy họ không phát ra lực từ. Chẳng hạn, khi họ đeo một la bàn trên cổ, kim của nó không chỉ về phía họ. Nếu cơ thể người phát ra lực từ đủ mạnh để hút chiếc thìa thì đương nhiên lực hút phải tác động tới la bàn. Nhưng trên thực tế kim của la bàn chỉ về phía bắc do tác động của cực từ bắc của địa cầu.
Mặc dù vậy, nhiều người vẫn không hiểu tại sao những vật có bề mặt nhẵn – như thìa và đĩa – có thể dính chặt vào da một số người.
Sadie Crabtree, một chuyên gia thuộc Quỹ Giáo dục James Randi tại Mỹ, cho rằng bản chất của hiện tượng thực ra khá đơn giản.
Hơi dính là một đặc tính tự nhiên của da người và một số cá nhân có làn da dính hơn những người khác. Hiện tượng đồ vật bám vào da chẳng khác gì việc ai đó đặt thìa lên mũi. Lực ma sát giữa da và đồ vật khiến đồ vật gắn vào cơ thể”, Crabtree nói.
Quỹ Giáo dục James Randi là tổ chức chuyên tài trợ cho các công trình nghiên cứu về hiện tượng bí ẩn.
Gabor Somorjai - một giáo sư hóa học và chuyên gia về các hiện tượng trên bề mặt vật thể của Đại học California tại Mỹ - cũng nói rằng hiện tượng đồ vật dính trên da có bản chất đơn giản.
Làn da của người được bao phủ bởi mỡ và dầu. Bạn có thể làm sạch chúng bằng xà phòng, song chỉ chưa tới một phút sau dầu sẽ lại xuất hiện. Mỡ trên da người có năng lượng bề mặt thấp do nó là chất lỏng. Liên kết giữa các nguyên tử của mỡ tương đối yếu”, ông nói.
Ngược lại, kim loại có năng lượng bề mặt lớn do liên kết giữa các nguyên tử kim loại rất mạnh và khó bị phá vỡ.
Những thứ có năng lượng bề mặt cao luôn sẵn sàng chuyển sang trạng thái năng lượng thấp hơn. Điều đó có thể xảy ra nếu chúng được bao phủ bởi vật chất có năng lượng bề mặt thấp”, ông giải thích.
Như vậy, những thứ bằng kim loại có xu hướng gắn kết mạnh với mỡ.
Bề mặt của vật thể càng nhẵn và diện tích bề mặt càng lớn thì mức độ bám dính vào da càng cao và thời gian dính càng dài. Elmar Kroner, một chuyên gia về vật liệu, khẳng định, sự co giãn của da cũng tác động tới độ dính của nó và mồ hôi khiến khả năng co giãn của da giảm.
Mồ hôi có một chức năng quan trọng. Khi lượng mồ hôi tăng, da trở nên mềm hơn và độ co giãn giảm khiến năng lượng bề mặt của da cũng giảm. Tình trạng đó khiến da trở nên dính hơn. Vì thế, mồ hôi càng nhiều thì độ dính của da càng tăng”, Kroner nói.
Randi từng chứng minh rằng những “người nam châm” mất khả năng giữ đồ vật trên người khi họ xát bột tan lên da. Bột tan là khoáng vật mềm, mịn được dùng để làm sạch mỡ.
Tất cả lập luận trên cho thấy, Bogdan không phát ra lực từ, mà chỉ là một cậu bé có làn da cực nhẵn và dính.

Phân cá voi làm chậm lại sự ấm lên toàn cầu


Theo phát hiện mới nhất của các chuyên gia sinh vật học hải dương thuộc Cục Nam Cực của Australia, phân cá voi có thể làm chậm lại sự ấm lên toàn cầu. 
Cá voi xanh.
Các chuyên gia sinh vật học chỉ ra, cá voi rất thích ăn loại sinh vật hải dương nhuyễn thể (euphausia). Sau khi ăn loài nhuyễn thể này, chất bài tiết của cá voi sẽ biến thành một loại nguyên tố chứa hàm lượng sắt cao và trở thành “phân bón” quan trọng trong hải dương.

Nhà khoa học Steve Nico thuộc Cục Nam Cực cho biết: “Nhuyễn thể có chứa hàm lượng sắt cao, sau khi ăn loài nhuyễn thể này, cá voi sẽ bài tiết trả lại đại dương nguyên tố sắt, giúp tái tạo sự phì nhiêu của biển cả và tái tuần hoàn toàn bộ chuỗi sinh vật.”

Theo các nhà khoa học, nếu số lượng cá voi đạt tới quy mô nhất định, hiệu quả do bài tiết mang lại sẽ rất nổi bật, giúp sinh vật biển đẩy nhanh tốc độ tuần hoàn và làm cho hải dương gia tăng khả năng hấp thụ khí CO2, qua đó giúp làm chậm lại sự ấm lên của khí hậu toàn cầu./.

Hàng triệu cá chết tại bến cảng Mỹ


Khoảng một triệu xác cá sardine nổi lên tại một bến cảng ở bang California của Mỹ, tạo nên bữa ăn thịnh soạn cho chim biển song lại khiến giới chức lúng túng.

Xác cá sardine phủ kín mặt nước trong bến cảng King hôm 8/3. Ảnh: AFP.
AP đưa tin ngư dân trong bến cảng King, thành phố Redondo Beach, bang California sửng sốt khi thấy xác cá nổi lên xung quanh thuyền của họ và kín cả một vùng nước. Sau đó giới chức kiểm tra và phát hiện xác cá tạo thành lớp có độ dày từ 30 tới 45 cm dưới đáy.
Brent Scheiwe, một chuyên gia của Hiệp hội bảo tồn Los Angeles, nói rằng kết quả kiểm tra một số mẫu nước trong bến cảng cho thấy nồng độ oxy gần bằng không. Những mẫu nước không có dầu hay bất kỳ hóa chất nào có thể khiến cá chết.
Andrew Hughan, người phát ngôn của Ủy ban Săn bắn và Đánh cá bang California, cho rằng có thể những con cá bơi vào bến cảng từ tối hôm trước và không thể tìm được đường ra.
“Lời giải thích đơn giản nhất là chúng lạc đường. Sự kiện này không gây nên bất kỳ vấn đề nào về an toàn, song chắc chắn mùi thối sẽ lan tỏa khắp bến tàu trong thời gian tới”, Hughan nói.

Công nhân vệ sinh thu gom xác cá tại bến cảng King hôm 8/3. Ảnh: AP.
Nhân viên cứu hỏa, cảnh sát tuần tra bến tàu và công nhân vệ sinh thu gom xác cá bằng lưới và xô. Ban đầu các quan chức quản lý bến cảng cho rằng số lượng cá chết vào khoảng vài triệu, nhưng theo tính toán của Ủy ban Đánh cá và Săn bắn bang California thì chỉ có khoảng một triệu xác cá. Giới chức thành phố ước tính chi phí để dọn sạch bến tàu có thể lên tới 100 nghìn USD.
Các loài động vật biển cũng giúp con người dọn dẹp đống thịt khổng lồ.
Lũ hải cẩu đang say sưa đánh chén. Người dân nhìn thấy những đàn cá lớn rỉa xác cá sardine ở trên mặt nước. Những xác cá sẽ được xử lý theo chu trình của tự nhiên”, Hughan nói.

Các chuyên gia cho rằng, nguyên nhân khiến hàng triệu con cá chết nổi ở một bến cảng gần bãi biển Redondo, bang California là do thiếu ôxy vì khu vực này đang bị tảo xâm lấn.
Điều này xảy ra tương tự với cá vàng khi bạn không thay nước trong bể thường xuyên. Lúc đó, những con cá vàng liên tục nổi lên mặt nước đẩy lấy ôxy và dần dần tử vong”, ông Bill Workman, một quan chức địa phương giải thích.

Ông Bill Workman cũng khẳng định rằng, không hề có dấu hiệu cho thấy cá chết hàng loạt do nhiễm độc. Những kết quả xét nghiệm nước cũng cho thấy không hề có những chất hóa học của dầu mỏ có trong nước.
Trong khi đó, những người dân địa phương cho rằng những cơn gió mạnh vào buổi tối trước đó là nguyên nhân khiến cá chết hàng loạt. Gió thổi mạnh khiến cá tập chung vào khu vực cảng quá đông và bị thiếu ô xy, dẫn tới tử vong.

Tình xuyên trái đất của những kẻ khổng lồ


Cá voi minke ở Bắc Cực và Nam Cực là hai loài riêng biệt và sống ở hai bán cầu của trái đất, song vì một nguyên nhân nào đó mà chúng đã giao phối với nhau và sinh ra con lai.
National Geographic cho biết, hai loài cá voi minke tại Bắc Cực và Nam Cực - đều có chiều dài thân tối đa 11 m - có tập tính di cư theo mùa hoàn toàn trái ngược nhau. Cá voi Bắc Cực di cư về phía cực bắc vào mùa xuân và tới sát các vỉa băng trong Bắc Băng Dương vào mùa hè. Sang mùa thu chúng bơi theo hướng nam để tới vùng nước gần đường xích đạo vào mùa đông.
Ngược lại, cá voi minke ở Nam cực tiến về phía cực nam vào mùa xuân và tới sát các vỉa băng vào mùa hè. Sang mùa thu chúng bơi về hướng bắc để tới vùng nước gần đường xích đạo vào mùa đông.
Nhưng do mùa ở hai bán cầu hoàn toàn trái ngược nhau nên hai loài cá voi không thể cùng tới vùng nước gần đường xích đạo vào một thời điểm. Vì thế, theo lý thuyết chúng không bao giờ gặp nhau.
Con người săn cá voi một cách ráo riết từ thập niên 30 và một số quốc gia vẫn tiếp tục săn lùng chúng tới tận ngày nay, như Na Uy và Nhật Bản.
Na Uy từng cấm săn cá voi trong một thời gian ngắn, song nước này cấp giấy phép trở lại vào năm 1993. Để kiểm soát giấy phép, Na Uy yêu cầu các tàu đánh cá nộp mẫu ADN của những con cá voi mà họ giết. Kho dữ liệu ADN cũng là cơ sở để chính phủ chứng nhận các sản phẩm từ các voi có nguồn gốc hợp pháp.
Kevin Glover, một nhà di truyền học, từng nghe một câu chuyện thú vị từng xảy ra vào năm 1996. Một nhà khoa học đã nhìn thấy một con cá voi minke lạ khi đứng trên tàu ở phía bắc Đại Tây Dương.
"Con cá voi đó không có mảng màu trắng trên vây ngực như cá voi Bắc Cực", National Geographic dẫn lời Glover.
Glover quyết định tìm hiểu sự việc dựa vào kho dữ liệu của chính phủ Na Uy. Ông phát hiện ra rằng, một con cá voi Bắc Cực bị giết ở vùng đông bắc Đại Tây Dương vào năm 2007 được sinh ra bởi một con cá voi Nam Cực. Sau khi phân tích ADN của một con con cá voi minke bị bắt ở khu vực phía bắc Đại Tây Dương vào năm 1996. Kết quả khiến ông sửng sốt, bởi nó là một con cá voi Nam Cực.
Phát hiện của Glover cho thấy cá voi Nam Cực có thể di cư vào những vùng nước mà cá voi Bắc Cực sống. Thậm chí, chúng còn giao phối với cá voi Bắc Cực.
Nhiều câu hỏi được đặt ra. Quá trình giao phối giữa cá voi Bắc Cực và Nam Cực chỉ là một sự ngẫu nhiên hiếm hoi, hay là sự khởi đầu của một xu hướng? Chẳng ai biết câu trả lời, song Nils Oien, một nhà sinh học chuyên nghiên cứu cá voi và cũng là đồng nghiệp của Glovers, đưa ra một giả thuyết thú vị.
Các nghiên cứu tại Nhật Bản cho thấy, số lượng cá voi Nam Cực ở bán cầu nam giảm mạnh trong hai thập niên 80 và 90. Kết quả một số cuộc khảo sát chỉ ra rằng số lượng những loài nhuyễn thể mà cá voi ăn được cũng giảm trong thời kỳ đó.
"Thậm chí, một nghiên cứu còn chứng minh lớp mỡ trong cơ thể cá voi Nam Cực cũng mỏng hơn do lượng thức ăn giảm. Vì thế chúng tôi suy đoán số lượng các loài nhuyễn thể và một số loại thức ăn khác của cá voi Nam Cực giảm nên chúng buộc phải di cư xa hơn để tìm thức ăn. Trong quá trình dư cư một số con đã tới Bắc Cực", Oien phát biểu.

Hàng trăm cá voi chết tại New Zealand


Hơn 100 cá voi hoa tiêu mất mạng trong một vụ mắc kẹt tập thể tại New Zealand, giới chức thông báo hôm nay.

Xác những con cá voi hoa tiêu trên bờ biển thuộc đảo Stewart Island, New Zealand hôm 20/2
AFP dẫn lời Bộ Bảo tồn New Zealand cho hay, người dân phát hiện 107 con cá voi hoa tiêu trên bờ biển thuộc đảo Stewart Island hôm qua, trong đó chỉ còn 48 con còn sống. Do không thể đưa đàn cá voi trở lại biển, các nhân viên cứu hộ của Bộ Bảo tồn quyết định giết những con còn sống để giúp chúng thoát khỏi tình trạng đau đớn.
Chúng tôi nhận ra rằng, nỗ lực giải thoát đàn cá voi cần ít nhất 10 tới 12 giờ. Trong điều kiện thời tiết khô và nóng, chúng sẽ chết trước khi công việc được thực hiện xong”, người phát ngôn của Bộ Bảo tồn giải thích.
Ngoài ra, theo người phát ngôn, một cơn bão cũng sắp đổ xuống bãi biển nên tính mạng của các nhân viên cứu hộ và người tình nguyện có thể bị đe dọa nếu họ cố gắng đưa cá voi trở lại biển.
Cá voi hoa tiêu – có độ dài tối đa tới 6 m – là loài cá voi phổ biến nhất tại các vùng biển của New Zealand. Chúng thường xuyên bị mắc cạn tập thể trên những bờ biển đầy đá. Hồi đầu tháng này 14 con cá voi hoa tiêu chết sau khi dạt vào thành phố Nelson thuộc đảo South Island. Tháng trước 24 con mất mạng do dạt vào bờ biển gần mũi Reinga ở miền bắc New Zealand.
Giới khoa học chưa giải thích được tại sao cá voi hoa tiêu thường mắc cạn tập thể. Một số người cho rằng, chúng lao vào bờ do sóng siêu âm của chúng bị nhiễu loạn trong tầng nước nông hoặc do một con ốm lạc hướng và những con khác bám theo.

Cá nhuộm đen bờ biển Mexico


Hiện tượng hàng nghìn con cá nhuộm đen nước biển trông giống như vệt dầu loang nhìn từ trên cao đã xuất hiện tại bờ biển thành phố nghỉ dưỡng Acapulco của Mexico. Các ngư dân cho rằng hiện tượng này có liên quan tới trận sóng thần ở Nhật Bản.

Một số lượng lớn cá mòi, cá trồng, cá hanh sọc và cá thu đã “xâm lấn” bờ biển Acapulco hôm 11/3. Đàn cá đông tới nỗi nước biển biến thành màu đen kịt và nhìn từ trên cao đàn cá giống một vệt dầu loang.
Các ngư dân đã đổ xô tới bãi biển và dễ dàng bắt cá với những chiếc vợt mà không cần dùng đến cần câu hay lưới.
Thật thú vị. Khoảng 20-30 ngư dân đã tới bắt cá. Thậm chí có người còn đưa con cái họ tới để đánh bắt”, ngư dân Carlos Morales nói.
Các ngư dân cho rằng, nguyên nhân của hiện tượng lạ này là do các dòng chảy bất thường gây ra bởi trận sóng thần tại Nhật Bản.
Tuy nhiên, các chuyên gia chưa chắc chắn về giả thuyết trên.

Mọi người thích tìm mối liên quan giữa các hiện tượng nhưng ai dám chắc về điều này? Các trận sóng thần có thể thay đổi các dòng chảy nhưng rất khó để khẳng định sự liên hệ chắc chắn”, Rich Briggs, nhà địa chất từ Cơ quan khảo sát địa chất Mỹ (USGS) nói.

Ảnh cá vây đen kịt bờ biển Mexico:

Những hiện tượng kỳ lạ sau thiên tai


Đàn cá khổng lồ, hố tử thần sâu trăm mét hay những núi băng bị sụt lở…đêu là những hiện tượng kỳ lạ sau khi xảy ra thiên tai.

Đàn cá khổng lồ ở Mexico
Có thể trận động đất mạnh 9 độ Richter và cơn sóng thần tại Nhật hôm 11/3 đã khiến cho dòng chảy bất thường và ảnh hưởng tới vùng biển Mexico. Một đàn cá khổng lồ trông như một vụ tràn dầu đã xuất hiện tại khu nghỉ mát biển Acapulco, Mexico. Người dân có thể dễ dàng bắt được nhiều con cá mòi, cá cơm, cá thu một cách dễ dàng.
Xuất hiện tia sét khi núi lửa Shinmoedake đang phun trào
Ngày 28 tháng 1 năm 2011, trong lúc núi lửa Shinmoedake phun đất đá và dung nham, một tia chớp xuyên thủng bầu trời phía ngọn núi đang phun lửa. Hiện tượng này vẫn là một bí ẩn đối với các nhà khoa học. The các chuyên gia tại đài thiên văn núi lửa Alaska (Mỹ), hiện tượng sét đánh trên miệng núi lửa có thể do một phần macma phun ra từ núi lửa tiếp xúc với khí quyển hình thành.
Cảnh quan kỳ lạ được tạo thành do hoạt động của núi lửa ở Ethiopia
Ethiopia là nơi có nhiệt độ cao nhất trên thế giới, nhiệt độ trung bình ở đây là 34,4 độ C, ban ngày nhiệt độ có thể lên tới 46 độ C. Tuy nhiên, chắc chắn nhiều du khách sẽ cảm thấy thỏa mãn khi đến đây để ngắm những tầng muối kết tủa do hoạt động của núi lửa tạo thành một khung cảnh tuyệt vời.
Xuất hiện hố tử thần khổng lồ sau bão nhiệt đới ở Guatemala
Có thể do ảnh hưởng của mưa bão do cơn bão nhiệt đới Agatha mang lại, ngày 30 tháng 5 năm 2010, thủ đô Guatemala xuất hiện một hố khổng lồ sâu tới 100 m khiến cả thế giới kinh ngạc. Hố sâu này tròn như miệng giếng. Người dân cho rằng hệ thống cống ngầm ở đây đã cũ nát nên khi lượng nước đổ về quá nhiều đã gây sạt đất đá ở dưới lòng đất.
Núi băng sụt lở do động đất ở New Zealand
Ngày 22 tháng 2 năm 2011, trận động đất mạnh 6,3 độ Richter cách trung tâm thành phố Christchurch khoảng 10km về phía Đông Nam và ở độ sâu 5 km đã khiến cho các ngọn núi băng ở đây cũng bị sụt lở theo.

Tảng đá khổng lồ rơi xuống vì hoạt động của núi lửa
Tháng 1 năm 2011, tại thành phố Hunchun Cát Lâm (Trung Quốc) xảy ra trận động đất mạnh 5,6 độ Richter, tâm chấn ở độ sâu 560 km nên người dân ở đây không cảm nhận được động đất. Chiều ngày 8 tháng 1, trên bầu trời Cát Lâm bỗng xuất hiện hiện tượng 3 mặt trời và có cầu vồng bao quanh. Được biết, hiện tượng này còn được gọi là hiện tượng mặt trời giả.
Một tảng đá khổng lồ lăn xuống chân núi vì hoạt động phun trào của núi lửa Eyjafjallajokull vào tháng 3 năm 2010. Người ta ước tính khối lượng của nó vào khoảng 1.000 tấn và cao 15,24 m.
Mưa đá khổng lồ tại Áo
Những hạt mưa đá khổng lồ to như quả trứng gà đã rơi xuống thành phố Clover trong một cơn bão.

Áp dụng liệu pháp khí công điều trị ung thư


Những bệnh nhân ung thư được điều trị bằng liệu pháp khí công cổ xưa cách nay khoảng 5000 tuổi, phương pháp này là sự kết hợp giữa bài tập thể dục nhẹ nhàng và trải nghiệm thiền định nhằm mang lại cảm giác bình an hạnh phúc về mặt tinh thần cho bệnh nhân, cũng như giúp cải thiện hoạt động nhận thức và ít bị đau đớn hơn so với nhóm đối chứng, theo kết quả nghiên cứu mới của các nhà khoa học làm việc tại trường Đại học Sydney, Úc.
Tiến sĩ Byeongsang Oh, một giảng viên cao cấp lâm sàng tại Trường Y khoa Sydney, Úc, trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết: Tình trạng viêm nhiễm gây đau đớn đã giảm rõ rệt ở những bệnh nhân ung thư thực hành tập khí công, cách thức chữa bệnh đặc biệt của nền y học cổ truyền Trung Quốc.
"Một vài Nghiên cứu đã cho thấy chứng viêm mạn tính gắn liền với sự tiến triển của căn bệnh ung thư, cũng như khả năng sống sót của bệnh nhân ung thư", theo Tiến sĩ Byeongsang Oh, sẽ công bố phát hiện này tại hội thảo hàng năm của Hội Ung bứu học lâm sàng Hoa kỳ ( ASCO ) ở Chicago, Hoa Kỳ, vào tuần tới.
Tình trạng viêm nhiễm gây đau đớn đã giảm rõ rệt ở những bệnh nhân ung thư thực hành tập khí công
Một phương pháp chữa bệnh quan trọng của nền y học cổ truyền Trung Quốc, khí công đòi hỏi phải sử dụng hoạt động thể chất và thiền định để kết hợp hài hòa giữa: Cơ thể, trí lực và tinh thần.
"Những Bệnh nhân đã trải nghiệm qua việc điều trị bằng việc thực hành tập khí công, đã có những cải thiện đáng kể về chất lượng cuộc sống bao gồm: Thân thể cường tráng, linh hoạt hẳn lên, đem lại cảm giác hạnh phúc, yêu đời và có cách nhìn nhận đời sống xã hội tích cực hơn, cải tiến trong hoạt động nhận thức, trong khi ở nhóm đối chứng tất cả các điều này đều rơi vào tiêu cực, ngày càng xấu đi" Tiến sĩ Byeongsang Oh nói.
Tiến sĩ Byeongsang Oh cũng nhận được các báo cáo từ những bệnh nhân đã trải nghiệm qua việc điều trị bằng việc thực hành tập khí công rằng: Họ cảm thấy thoả mãn hơn trong đời sống tình dục.
Nghiên cứu trên được thực hiện với sự tham gia của 162 bệnh nhân, với những bệnh nhân đã trải nghiệm qua việc điều trị bằng việc thực hành tập khí công, họ sẽ thực hiện một chương trình 10 tuần với 2 phiên thực hành có sự giám sát khoảng 90 phút mỗi tuần. Họ cũng được khuyến khích thực hành tập khí công ở nhà mỗi ngày trong ít nhất nửa giờ.
Tuổi trung bình của những bệnh nhân tham gia nghiên cứu này là 60 tuổi, với các độ tuổi khác nhau, từ 31 tuổi đến 86 tuổi. Chẩn đoán ung thư thời kỳ đầu phổ biến nhất trong số bệnh nhân tham gia nghiên cứu này là: Ung thư vú chiếm 34% sau đó là ung thư kết tràng - trực tràng chiếm 12 %.
Khi bắt đầu tiến hành nghiên cứu, thật sự không có sự khác biệt đáng kể trong các phép đo của chất lượng của cuộc sống, bao gồm: cảm giác mệt mỏi, tâm trạng tiêu cực và tình trạng viêm nhiễm giữa nhóm những bệnh nhân sẽ trải nghiệm qua việc điều trị bằng việc thực hành tập khí công và nhóm đối chứng.
"Theo thông tin chúng tôi được biết, nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu đầu tiên mang ý nghĩa thống kê, kiểm soát thử nghiệm ngẫu nhiên để đo lường tác động của việc điều trị thông qua thực hành tập khí công ở bệnh nhân ung thư", tiến sĩ Oh nói.

Admin

Thanks for joint