1/6/11

Phát hiện chiến đấu cơ còn nguyên vẹn của Đức quốc xã dưới biển


Một chiếc máy bay ném bom hiếm thấy của Đức quốc xã thời Thế chiến II bị bắn hạ trên Eo biển Anh đã được cát bảo quản gần như vẫn còn nguyên vẹn.

Chiếc Dornier 17 được chụp bằng thiết bị siêu âm công nghệ cao.
Chiếc máy bay ném bom Dornier 17 bị bắn hạ khi tham gia Trận chiến Anh. Nó bị đâm xuống biển ngay ngoài khơi bờ biển Kent, đông nam Anh.
Chiếc máy bay nằm lật ngửa dưới độ sâu khoảng 15m và thỉnh thoảng được thấy nhô lên một phần khi cát rút đi. Sau đó nó bị chôn vùi hoàn toàn.
Một cuộc khảo sát bằng sóng siêu âm công nghệ cao do giới chức cảng London (PLA) thực hiện đã phát hiện thấy tình trạng nguyên vẹn đáng kinh ngạc của chiếc máy bay.
Ian Thirsk, người phát ngôn Bảo tàng Không quân hoàng gia Anh (RAF) tại Hendon, London, cho hay, ông đã rất “hoài nghi” khi lần đầu tiên nghe đến sự tồn tại và sự nguyên vẹn của nó.“Đây là một trong những phát hiện quan trọng nhất trong ngành hàng không của thế kỷ này”.
Mệnh danh là “bút chì bay”, Dornier 17 được thiết kế là máy bay chở khách vào năm 1934, nhưng sau đó được chuyển thành máy bay ném bom thần tốc, bởi nó rất khó bị bắn trúng và có khả năng bay nhanh hơn chiến đấu cơ của đối thủ.
Tổng cộng khoảng 1.700 chiếc máy bay loại này đã được sản xuất nhưng chúng tham gia chiến đấu với tầm xa, sức chở bom hạn chế. Vì vậy, nhiều chiếc đã bị hủy bỏ sau đó.

Một chiếc Luftwaffe Dornier 17 được chuyển từ chở khách sang ném bom.
Hình ảnh với độ nét cao cho thấy chiếc máy bay chỉ bị hư hại nhẹ, với buồng lái trước và cửa quan sát bị va chạm.
Cửa xả bom bị mở, cho thấy phi công đã thả hết đồ xuống để máy bay được nhẹ”, người phát ngôn PLA cho hay.
2 phi công trên máy bay đã thiệt mạng trong vụ va chạm, trong khi 2 người khác bị bắt làm tù binh và sống sót sau cuộc chiến.
Máy bay được chế tạo gần như hoàn toàn bằng nhôm và được chế tạo từng chiếc một là lý do khiến nó “trụ” được lâu đến vậy”, Garside cho hay.
Bảo tàng RAF đã phát động chiến dịch quyên tiền để trục vớt máy bay.

Bí ẩn hóa thạch răng thú lạ khổng lồ ở Quảng Nam


Hai phần của một bộ răng, chiều dài bộ răng ước chừng từ 1m đến 1,2m, và nếu như là của một động vật nào đó thì đó phải là một động vật rất to lớn.
Ông Ngô Đăng Khoa, giáo viên dạy văn trường THPT Phan Bội Châu, Tp Tam Kỳ, Quảng Nam, cho biết đang lưu giữ những mảnh nhỏ được cho là của một bộ răng thú đã hóa thạch mà ông lấy về từ một lũng sâu tại huyện Núi Thành, Quảng Nam.
Răng thú khổng lồ
Một mảnh nhỏ được cho là của bộ răng thú hóa thạch.
Trong một lần làm rẫy, người bạn của ông Khoa phát hiện thấy “những viên đá” có hình thù kỳ lạ, lấy cuốc bổ vào thì thấy vỡ ra theo một đường đặc biệt. Đến xem, ông Khoa đã mang về mấy mảnh nhỏ.
Đó là những khối chất xương có cấu tạo giống như bộ răng của một loài thú khá lớn, độ cao của “những chiếc răng” này là 15cm, bề rộng 6cm, được xếp đều đặn và mặt răng khá nhọn giống như của loài thú ăn thịt.
Một khối răng còn lại mặt răng bằng, theo như nhận định của ông Khoa, thì đây là hai phần của một bộ răng, chiều dài bộ răng ước chừng từ 1m đến 1,2m, và nếu như là của một động vật nào đó thì đó phải là một động vật rất to lớn.
Ông Hồ Xuân Tịnh, một nhà nghiên cứu về văn hóa của Quảng Nam, nhận định đó là răng voi. Còn ông Trần Tấn Vịnh, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Quảng Nam không đồng ý, nhưng là loài gì thì ông không thể khẳng định.
Ông Khoa hy vọng các nhà khoa học quan tâm sẽ sớm tìm ra lời giải đáp. Nếu đúng là răng của một loài vật, thì rất có thể đây sẽ là một bằng chứng để nghiên cứu về cổ sinh vật học, địa chất học, sử học và nhiều ngành khoa học khác nữa tại Quảng Nam.

Huyền bí cánh đồng chum ở Lào


Cánh đồng chum - một di tích khảo cổ học nằm ở tỉnh Xianhuang, Lào là nơi tập hợp hàng ngàn chiếc chum đá lớn nằm rải rác tại chân dãy núi Trường Sơn.
Kích thước của các chum đá dao động khoảng từ 0,5 đến 3m, trọng lượng lên đến 6000 kg và có niên đại khoảng 1500 đến 2000 năm. Một nhóm những chum đá lớn nhất bao gồm khoảng 250 chiếc với kích thước khác nhau nằm ngay gần thị xã Phonsavan. Hiện nay, cánh đồng chum đang được Lào đề nghị UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới.
cánh đồng chum
Toàn cảnh cánh đồng chum (Nguồn ảnh: Internet).
Các nhà khảo cổ học cho rằng các chum đá đã được người cổ đại sinh sống ở Đông Nam Á sử dụng từ cách đây 1500 đến 2000 năm, do những người thuộc nhóm Môn-Khmer mà nền văn hóa của họ ngày nay vẫn còn nhiều bí ẩn làm ra. Phần lớn các hiện vật khai quật có niên đại 500 năm trước Công nguyên - 800 năm sau Công nguyên.
Theo các nhà nhân chủng học và sử học, những chiếc chum đá này có thể được sử dụng làm bình đựng di cốt trong tang lễ hoặc để trữ nước.
Truyền thuyết Lào cho rằng trong cánh đồng chum này có người khổng lồ sinh sống. Một truyền thuyết khác lại kể rằng nhà vua Khun Chyn sau khi thành công trong cuộc chiến chống lại kẻ thù của mình đã ra lệnh làm các chum đá đựng rượu gạo khao quân.
Trong suốt thời kỳ chiến tranh, Mỹ đã dùng bom hủy diệt các hang động và kể từ đó cánh đồng lưu giữ rất nhiều bom đạn chưa nổ. Sau chiến tranh, các nghiên cứu về cánh đồng chung trở nên hạn chế do nguy cơ bom nổ.

Phát hiện mật mã trong mắt nàng Mona Lisa


Trong mắt nàng Mona Lisa của danh họa Leonardo da Vinci có chứa nhiều con số và chữ cái nhỏ xíu – theo phát hiện mới nhất của các nhà nghiên cứu Italia.
Các nhà sử học đã phóng to hình ảnh đôi mắt trong bức tranh và tìm thấy các kí tự nhỏ xíu được giấu trong lớp sơn màu tối.
Ở mắt phải của Mona Lisa có ký tự LV, rất có thể đó là tên viết tắt của Leonardo da Vinci. Còn mắt trái cũng có ký tự nhưng chưa xác định được đó là chữ CE hay B. Ở vòm mắt có số 72, hoặc L và số 2. Bức tranh này đã gần 500 năm tuổi rồi nên không còn sắc nét nữa” – ông Silvano Vinceti, Chủ tịch Ủy ban Di sản văn hóa quốc gia Italia cho biết.

Ảnh: Mắt trái của nàng Mona Lisa
Công việc tìm lại bí ẩn trong bức họa nổi tiếng này được bắt đầu khi một thành viên của Ủy ban Di sản văn hóa quốc gia nước này tìm thấy một cuốn sách cũ trong một hàng đồ cổ có nói về các biểu tượng trong đôi mắt nàng Mona Lisa.
Da Vince là một người rất bí hiểm, ông thường dùng biểu tượng trong tác phẩm để gửi đi thông điệp. Ông ấy rất trân trọng bức họa này, những năm cuối đời họa sĩ đi đâu cũng mang bức tranh theo. Có thể thông điệp trong bức tranh là về tình yêu gửi cho nàng Mona Lisa” – ông Vinceti cho biết thêm.

Chân dung nàng Mona Lisa. (nguồn: Dailymail)
Hiện tại ông Vinceti và nhóm nghiên cứu đang xin giấy phép khai quật hầm mộ của Leonardo da Vinci ở Pháp. Nếu có thể dựng lại gương mặt Leonardo từ hộp sọ, các nhà khoa học có thể xác định được bức họa Mona Lisa có phải là chân dung tự họa của da Vinci như một số người khẳng định hay không.

Tìm thấy di cốt nghi của Mona Lisa!


Các nhà khảo cổ học của Ý đã tìm thấy hộp sọ và xương cốt của người phụ nữ được nghi ngờ có thể chính là người phụ nữ trong bức tranh kiệt tác Mona Lisa của Leonardo da Vinci.
Nhóm khai quật cho biết, họ đã tìm thấy ngôi mộ chứa hài cốt trên sau hai tuần tìm kiếm tại một tu viện bỏ hoang ở Florence. Ngôi mộ được chôn sâu khoảng 1,5m bên dưới sàn tu viện. Ngôi mộ này được cho là thuộc về Lisa Gherardini Del Giocondo, vợ của một thương gia sống cùng thời với Leonado da Vinci.
Tìm thấy di cốt nghi của Mona Lisa!
Hộp sọ được tìm thấy bên trong ngôi mộ ở tu viện.
Từ lâu, nhiều học giả trên thế giới đã cố giải mã người phụ nữ làm mẫu trong bức họa nổi tiếng Mona Lisa là ai. Nhiều cuộc tranh cãi đã nổ ra với rất nhiều giả thuyết khác nhau nhưng đến nay chưa giả thuyết nào có chứng cứ đáng tin cậy. Nhưng phần lớn các chuyên gia tin rằng, Lisa chính là người mẫu để da Vinci vẽ lên bức họa này.
Tìm thấy di cốt nghi của Mona Lisa!
Xương sườn và xương sống được tìm thấy bên trong ngôi mộ.
Việc khai quật ngôi mộ được cho là thuộc về Lisa sẽ cung cấp cho các nhà khoa học cơ sở để đối chiếu với giả thuyết trên. Họ tìm thấy hộp sọ còn nguyên vẹn, các xương sườn và xương sống bên trong ngôi mộ.
Tìm thấy di cốt nghi của Mona Lisa!
Lisa đã trở thành nữ tu và sống tại tu viện này cho tới lúc bà qua đời sau khi người chồng chết.
Các nhà khoa học sẽ so sánh ADN trong bộ hài cốt này với ADN của hậu duệ Lisa để chứng minh đó thực sự có phải là hài cốt của bà hay không. Sau đó, từ hộp sọ, họ sẽ tái hiện hình ảnh khuôn mặt của người phụ nữ đã qua đời từ 5 thế kỷ trước này để đối chiếu với nhân vật có nụ cười bí hiểm trong tranh.
Tìm thấy di cốt nghi của Mona Lisa!
Các nhà khảo cổ học khai quật ngôi mộ 500 năm để giải mã bức tranh bí hiểm.
Lisa Gheradini, người qua đời ngày 15 tháng 7 năm 1542 tại tu viện này, là vợ của một thương gia giàu có buôn lụa tên là Francesco del Giocondo. Bà đã trở thành nữ tu sau khi chồng qua đời. Ở Ý, Mona Lisa còn được gọi là La Gioconda.
Tìm thấy di cốt nghi của Mona Lisa!
Kiệt tác bí hiểm Mona Lisa của da Vinci
Bà kết hôn năm 1495 khi mới 16 tuổi và chồng 35 tuổi. Theo giả thuyết, da Vinci đã vẽ bức tranh để kỷ niệm việc bà có thai. da Vinci bắt đầu vẽ Mona Lisa vào năm 1503 hoặc 1504 và hoàn thành nó vào năm 1519, ngay trước khi ông qua đời và sau khi ông chuyển tới Pháp.

Nền văn minh Inca được hình thành từ... phân lạc đà


Theo một nghiên cứu mới nhất, một trong những nền văn minh cổ xưa nhất thế giới có thể đã được hình thành từ phân của loài llama, một giống lạc đà không bướu ở Nam Mỹ.
Tháng 7 tới đây là sẽ là kỷ niệm 100 năm kể từ khi thế giới bên ngoài phát hiện ra Machu Picchu, thành phố nổi tiếng của văn minh Inca nằm trên dãy Andes của Peru. Các nhà chức trách sẽ có chuyến đi đến khu di tích để tổ chức một sự kiện hoành tráng vào tháng 7, thời điểm đánh dấu 100 năm kể từ khi nhà thám hiểm Mỹ Hiram Bigham đặt chân lên vùng đất này.

"Thành phố bị mất" Machu Picchu giờ là địa điểm chính thu hút khách du lịch đến Peru.
Nhưng nguồn gốc của Machu Picchu thì dường như không mấy “hoành tráng”. Theo một nghiên cứu công bố trên Tạp chí cổ khảo cổ học Antiquity, phân của những con llama chính là nền tảng cho sự phát triển của xã hội Inca.
Theo nghiên cứu của tác giả Alex Chepstow-lusty, chính sự chuyển đổi từ cuộc sống săn bắn hái lượm sang sản xuất nông nghiệp 2.700 năm trước đây đã lần đầu tiên khiến người Inca đến định cư tại khu vực Cuzco, nơi có thành phố Machu Picchu về sau. Ông Chepstow-lusty, thuộc Viện Nghiên cứu Andes của Pháp ở Lima, cho biết sự phát triển của nông nghiệp và việc trồng ngô là chìa khóa cho sự phát triển của xã hội.
"Ngũ cốc đã tạo ra văn minh," ông nói.
Ông Chepstow-lusty đã có nhiều năm phân tích các trầm tích hữu cơ trong bùn của một hồ nước nhỏ có tên là Marcaccocha nằm trên con đường nối giữa khu rừng rậm tầng thấp và Machu Picchu. Nhóm của ông đã tìm thấy một mối liên hệ giữa sự xuất hiện lần đầu tiên của phấn hoa ngô vào khoảng 700 trước công nguyên – cũng là lần đầu tiên cho thấy ngũ cốc có thể được trồng ở những vùng đất cao - và sự tăng đột biến số lượng những con mạt ăn phân động vật.

Những con llama đã để lại dấu ấn của mình trong lịch sử văn minh nhân loại (Ảnh: Io9).
Họ kết luận rằng, việc chuyển sang đời sống nông nghiệp trên diện rộng chỉ có thể diễn ra với một nhân tố nữa: đó là việc sử dụng phân bón hữu cơ trên quy mô lớn hay nói cách khác là phải có nhiều phân của loài llama.

Di sản của llama

Những con llama đã và vẫn đang được nuôi ở vùng Andes của Peru để vận chuyển hàng hoặc để lấy thịt và len.
Marcaccocha nằm bên cạnh một tuyến đường thương mại cổ xưa, và những con llama được dùng để vận chuyển hàng hoá giữa các khu rừng rậm và các ngọn núi sẽ dừng lại để uống nước và "đại tiện luân phiên". Việc này đã tạo ra nguồn phân bón mà người dân địa phương đã có thể dễ dàng thu gom, như hiện nay, và dùng cho những cánh đồng xung quanh đó.
Khi người Inca chuyển từ ăn quinoa dại (một giống rau chân vịt) sang ăn ngô, thứ thực phẩm có lượng calo cao hơn, xã hội của họ bắt đầu phát triển tại khu vực Cuzco.
Khoảng 1.800 năm kể từ khi lần đầu tiên chuyển từ săn bắt hái lượm nông nghiệp, vào khoảng năm 1100 sau công nguyên, một đợt nắng ấm kéo dài làm cho đời sống thực sự sinh sôi nảy nở, dẫn đến việc xây dựng các khu nhà ở bằng đá lớn như Ollaytaytambo và Machu Picchu.
Ngày nay, người Inca đã hoàn toàn biến mất, phần lớn đã bị “xóa sổ” bởi người Tây Ban Nha trong những năm 1500. Nhưng con cháu của họ, người Quechua, hiện vẫn còn sử dụng phân llama làm phân bón và nhiên liệu nấu ăn.
"Những thung lũng tập trung nhiều người dân bản địa vẫn giữ nếp sinh hoạt của 2.000 năm trước đây," ông Chepstow-Lusty nói.
Khi đến Machu Picchu để kỷ niệm 100 năm kể từ khi Hiram Bingham giới thiệu thành phố này với toàn thế giới, du khách có lẽ sẽ cảm ơn loài llama khiêm tốn vì những gì mà họ đang nhìn thấy trước mắt.

Bí ẩn về những con tàu bị đắm tại VN: Dưới đáy đại dương!


Khai quật từ năm con tàu đắm cổ, đã đem lại cho bảo tàng những tài liệu, hiện vật vô giá, mở ra một hướng đi mới cho khảo cổ học nước nhà.
Khoảng hơn 800.000 cổ vật – một con số không nhỏ bổ sung vào kho tàng cổ vật Việt Nam. Những hiện vật khai quật từ những con tàu đắm ở đáy đại dương chủ yếu là gốm sứ. Ngoài ra còn một lượng rất ít ỏi là đồ dùng của thủy thủ đoàn bao gồm đồ kim loại như đèn và chao đèn bằng đồng, tiền đồng, hộp đồng, chậu đồng, một số đồ gang; trâm cài tóc có thể là xương và một số đồ gỗ, vải…
Những đồ sứ trong sưu tập hiện vật tàu đắm với nhiều thể loại, nhưng nhiều nhất là đĩa. Sưu tập đĩa sứ hoa lam chiếm tỷ lệ lớn trong các con tàu cổ, nhất là tàu cổ Cà Mau, tàu cổ Cù Lao Chàm.
Khai quật tàu đắm
Cận cảnh xác tàu bị đắm. (Ảnh minh họa).
Đĩa có nhiều kích cỡ, kiểu dáng, hình thù như miệng tròn, miệng loe, thành vát, hình bát giác, hình thoi, hình lục giác, miệng bè, viền hình cánh hoa… Có nhiều đĩa đường kính từ 35cm đến 39cm. Hoa văn trang trí cũng rất phong phú, đa dạng. Đề tài hoa lá có hình sen dây, cành lá thu, hoa mẫu đơn, lan cúc, ánh trăng và hoa lá, ao sen.
Đề tài động vật là những con chim hạc, cá chép, lợn đang chạy, nghê, chim báo hỷ đậu cành mai, khổng tước và mẫu đơn… Trang trí hình người phụ nữ, hồng tiên nữ, cảnh người trèo tường và thiếu nữ áo dài đứng đợi cho đến những cảnh đồng tử chăn trâu, bắt cá hay chim phượng chầu mặt trời vô cùng sinh động.
Bên cạnh những đĩa sứ hoa lam là đĩa men ngọc. Đây là loại men hiếm, vì vậy số lượng không nhiều. Đĩa có miệng bé, viền hình hoa, hình răng hay hoa văn sóng biển. Ngoài ra, còn loại đĩa men trắng vẽ nhiều màu trên men, trang trí chim hạc, đào trường thọ; đĩa men trắng vẽ lam và nhiều màu được trang trí vàng kim và đôi chim đậu cành đào. Đĩa men xanh hình phượng màu đỏ; đĩa hoa lam tam thái dưới men có trang trí sơn thủy và người. Đặc biệt, có một đĩa được xếp bởi chín đĩa sứ hoa lam vẽ tiên rất độc đáo.
cổ vật
Những báu vật cổ...(Ảnh: M.Hà).
Sau loại hình đĩa, phải kể đến chén. Chén trong sưu tập cũng phong phú, đa dạng về loại hình và hình thức trang trí, số lượng rất lớn. Bát gốm sứ trục vớt từ các con tàu đắm tương đối nhiều. Cũng tương tự như đĩa, bát gốm sứ có nhiều hình dáng, kích cỡ và bao gồm bát hoa lam, ngoài lam xám trong men trắng, hoa lam kết hợp vẽ màu, bát men ngọc.Ngoài ra, còn có tách, ấm sứ hoa lam, hoa lam vẽ nhiều màu trên men, hoa lam kết hợp men đỏ lục, men lam xám, men trắng…
Trong kho báu trục vớt từ “Con đường tơ lụa trên biển”, còn tìm được nhiều lọ gốm hoa lam vẽ dây nho trong ô hình hoa hải đường, lọ hình đèn lồng vẽ sơn thủy, vẽ cảnh em bé chơi hoa sen hay hình phụ nữ trong ô cánh sen...
Sưu tập hiện vật từ các con tàu đắm trên biển Việt Nam có hàng trăm ngàn hiện vật.Những mô tả sơ bộ trên, phần nào giúp hình dung sự phong phú, đa dạng về loại hình và chủng loại. Hoa văn trang trí trên các hiện vật muôn màu, muôn vẻ và sống động, tinh tế. Đề tài trang trí bao gồm con người theo lối tả thực, nhiều đề tài theo tích chuyện cổ. Nhiều hơn cả là đề tài phong cảnh sơn thủy tùng đình và đề tài hoa lá.
cổ vật
Có giá trị cả về văn hóa, lịch sử và kinh tế. (Ảnh: M.Hà).
Ngoài ra còn có đề tài động vật, chữ phúc vạn thọ, chậu hoa đặt trên kỷ… bằng nét bút đơn giản nhưng được thể hiện nhiều kiểu khác nhau tạo nên sự phong phú của đề tài. Có thể nói, đây là những cổ vật quí hiếm, có giá trị cả về văn hóa, lịch sử và kinh tế. Chúng có cách ngày nay ít nhất cũng vài ba trăm năm, có nguồn gốc từ Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam.
Có thể nói, đây là điều vô cùng may mắn cho ngành bảo tồn. Bởi thực tế hiện nay, lượng cổ vật trong các kho của bảo tàng không nhiều; công việc sưu tầm cổ vật cũng rất khó khăn. Cổ vật hiếm, giá rất đắt và nếu không cẩn thận còn bị hàng giả, hàng nhái.

Phát hiện hóa thạch tôm khổng lồ, răng sắc như dao cạo


Một sinh vật khổng lồ thời tiền sử có hình dáng giống như con tôm từng "khủng bố" các đại dương hơn nửa tỷ năm trước vừa được phát hiện bởi các nhà khoa học.
Quái thú đáng sợ này được gọi là anomalocaridids sống ở kỷ Cambri, giai đoạn hệ thái phức tạp bắt đầu được hình thành. Một con anomalocaridids trưởng thành có thể dài tới 1,80 m và trông hình dạng khá giống với con tôm ngày nay.
Nhưng có một điểm khác biệt là chúng có hàm răng vô cùng sắc và khỏe, có thể phá vỡ vỏ cứng của các sinh vật biển khác để ăn thịt.
Anomalocaridids có hình dáng của một con tôm khổng lồ
Anomalocaridids có hình dáng của một con tôm khổng lồ.
Hóa thạch hoàn chỉnh của một trong số chúng được các nhà khoa học Maroco phát hiện gần đây cho thấy chúng có kích thước lớn hơn rất nhiều so với các hóa thạch thuộc loài này được phát hiện trước đó (chỉ dài có 0,9 m) và chúng đã có mặt trên Trái Đất sớm hơn 30 triệu năm như mọi người vẫn tưởng .
Chúng đã xuất hiện trong các đại dương cổ từ 488 tới 472 triệu năm trước chứ không phải từ 540 tới 500 triệu năm trước.
Những con tôm anomalocaridids có đôi mắt rất lớn, một hàm răng sắc nhọn trông như gọng kìm. Hóa thạch cũng cho thấy chúng có một loạt các sợi có chức năng giống như mang. Khi chúng chết, xác của chúng chìm xuống dưới đáy đại dương khá sâu và đã bị phân hủy thành nhiều phần khác nhau nên việc tìm thấy được một hóa thạch hoàn chỉnh của chúng là rất hiếm.
Tại nơi phát hiện các hóa thạch của tôm khổng lồ anomalocaridids ở Moroco, các nhà khảo cổ học tìm thấy hàng ngàn bằng chứng khác của loài động vật thân mềm có niên đại khoảng 488 tới 472 triệu năm tuổi.
Hóa thạch khổng lồ còn khá nguyên vẹn của anomalocaridids được cho là có niên đại vào khoảng 488 tới 472 triệu năm trước
Hóa thạch khổng lồ còn khá nguyên vẹn của anomalocaridids được cho là có niên đại vào khoảng 488 tới 472 triệu năm trước, sớm hơn 30 triệu năm so với thời gian mà mọi người
vẫn tưởng.
Điển hình là hóa thạch của một bộ não hoàn chỉnh thuộc về một động vật có vú lớn sống trong khu vực rừng già của Peru hiện nay từ 20 triệu năm trước. Trong khi đó, hóa thạch não của động vật có vú cổ nhất được biết tới có niên đại 300 triệu năm được tìm thấy ở Kansas.
Những phát hiện mới cho thấy rằng sự đa dạng sinh học ở kỷ Cambri có thể đã xuất hiện sớm hơn 30 triệu năm trước so với thời gian mà con người vẫn biết từ trước tới nay. Ngoài ra, nó cũng cho biết về các loài động vật đặc trưng sống ở kỷ này.

Dữ liệu từ vệ tinh giúp theo dõi rừng tảo bẹ lớn nhất thế giới


Các nhà khoa học tại Đại học UC Santa Barbara, Hoa Kỳ, đã phát triển phương pháp mới để nghiên cứu các yếu tố môi trường và khí hậu ảnh hưởng đến hệ sinh thái rừng tảo bẹ khổng lồ như thế nào ở quy mô lớn chưa từng có trước đây, kể cả không gian và thời gian.
Các nhà khoa học kết hợp dữ liệu thu thập được dưới nước của các thợ lặn tại Đại học UC Santa Barbara, Hoa Kỳ với hình ảnh vệ tinh của các tán cây tảo bẹ khổng lồ được thực hiện bởi vệ tinh Landsat 5. Các kết quả của nghiên cứu này được công bố trên tạp chí Issue of Marine Ecology Progress Series, số ra ngày 16 tháng 5 năm 2011.
Trong quá trình lập bản đồ vệ tinh của các hệ sinh thái biển, nhóm các nhà nghiên cứu của Đại học UC Santa, Hoa kỳ, theo dõi các động thái của rừng tảo bẹ khổng lồ lớn nhất thế giới trải dài trong suốt toàn bộ eo biển Santa Barbara, vào khoảng 6 tuần một lần, trong khoảng thời gian 25 năm, từ năm 1984 tới năm 2009.
David Siegel (trái), Daniel Reed và Kyle Cavanaugh
David Siegel (trái), Daniel Reed và Kyle Cavanaugh
David Siegel, đồng tác giả, giáo sư địa lý và là đồng giám đốc Viện Nghiên cứu Trái đất, Đại học UC Santa Barbara, Hoa Kỳ, ghi nhận rằng: Vệ tinh Landsat 5 có 25 năm ghi nhận hình ảnh từ vũ trụ chưa từng thấy trước đây. "Tôi đã từng tham gia các chương trình phát triển vệ tinh, và một vệ tinh thực hiện nhiệm vụ trong hơn 10 năm quả là hiếm. Một vệ tinh tiếp tục thực hiện nhiệm vụ trong hơn 25 năm là một phép lạ", Siegel nói. Vệ tinh Landsat 5 ban đầu được lên kế hoạch sẽ được sử dụng chỉ trong 3 năm.
Rừng tảo bẹ khổng lồ được đặt tại khu vực ôn đới ven biển trên khắp thế giới. Chúng nằm trong số các hệ sinh thái hiệu quả nhất trên Trái Đất, và bản thân tảo bẹ khổng lồ là nguồn cung cấp thực phẩm và môi trường sống cho rất nhiều loài sinh vật biển thuộc nhiều hệ sinh thái và vùng kinh tế biển quan trọng gần bờ. Tảo bẹ khổng lồ cũng cung cấp một nguồn thực phẩm quan trọng cho nhiều loài sống trên cạn và cả các sinh vật ở sâu dưới đáy biển, khi tảo bẹ bị xé ra từ đáy biển, thường dạt vào bãi biển hoặc bị cuốn ra ngoài khơi vào vùng nước sâu hơn.
Tảo bẹ khổng lồ đặc biệt nhạy cảm với những thay đổi của: Khí hậu, sự thay đổi của sóng biển và các điều kiện dinh dưỡng. Các nhà khoa học thấy rằng các động thái ảnh hưởng tới quá trình phát triển của tảo bẹ khổng lồ trong khu vực tiếp xúc của eo biển Santa Barbara, phần lớn được kiểm soát bởi sự xuất hiện của các con sóng lớn. Trong khi đó, tảo bẹ phát triển trong khu bảo tồn hầu hết bị khống chế bởi mức chất dinh dưỡng thấp.
Những hình ảnh từ vệ tinh Landsat 5 cung cấp cho nhóm nghiên cứu một tầm nhìn mới để quan sát sự thay đổi của rừng tảo bẹ khổng lồ qua thời gian. Vệ tinh Landsat 5 được chế tạo ở Trung tâm Nghiên cứu Santa Barbara, ở hạt Santa Barbara, và được phóng vào không gian ở căn cứ không quân Vandenberg, Hoa Kỳ. Nó được thiết kế để quét toàn bộ thế giới trong 16 ngày và đã thu thập hàng triệu hình ảnh. Cho đến thời gian gần đây thì những hình ảnh này được sử dụng hạn chế trong các nghiên cứu khoa học bởi chúng tương đối đắt tiền do chi phí cao.
Tuy nhiên, trong năm 2009, lần đầu tiên toàn bộ các thư viện hình ảnh vệ tinh đã được trưng bày miễn phí cho công chúng. "Trong quá khứ, thật sự không khả thi để chụp những loạt ảnh trong thời gian dài, bởi mỗi ảnh này có chi phí trên 500 USD," theo Kyle C. Cavanaugh, tác giả đầu tiên và là nghiên cứu sinh chuyên ngành khoa học biển, tại Đại học UC Santa Barbara, Hoa Kỳ. "Trước đây, phải may mắn mới có được một vài hình ảnh. Một khi những dữ liệu được tung ra miễn phí, bất thình lình chúng ta có thể nhận được hàng trăm hình ảnh qua thời gian."
Tảo bẹ khổng lồ phát triển đến độ dài hơn 30,48 m và có thể phát triển lên đến 18 cm mỗi ngày. Thực vật bao gồm bó lá lược tạo thành dạng dây thừng mở rộng từ đáy đến bề mặt biển. Lá lược sống từ 4 đến 6 tháng, trong khi thực vật riêng sống bình quân trong hai đến 3 năm. Theo bài báo, "tảo bẹ khổng lồ tạo thành vòm lá nổi dày đặc tại bề mặt biển, nhìn rất ấn tượng khi quan sát chúng từ bên trên. Nước hấp thu hầu như mọi năng lượng hồng ngoại truyền qua nó, vòm lá tảo bẹ rất dễ dàng được phân biệt bằng cách sử dụng tín hiệu phản xạ cận hồng ngoại của nó."
Cavanaugh giải thích rằng, nhờ vào những hình ảnh vệ tinh, lần đầu tiên, nhóm của Cavanaugh đã có thể thấy sinh khối của tảo bẹ khổng lồ dao động trong và giữa các năm trong khu vực. "Nó thay đổi một số lượng lớn", Cavanaugh nói. "Chúng tôi biết từ những quan sát thợ lặn scuba rằng thực vật tảo bẹ cá nhân đang tăng trưởng nhanh và ngắn ngủi, nhưng những dữ liệu mới cho thấy các mô hình biến đổi đó cũng có mặt bên trong và giữa các năm với quy mô lớn hơn nhiều. Toàn bộ khu rừng có thể bị xóa sổ trong vài ngày, nhưng sau đó phục hồi trong vài tháng."
Tảo biển
Tảo biển (Ảnh: Kelpscape)
Dự án nghiên cứu sinh thái ven biển Santa Barbara trong dài hạn (SBC LTER), có trụ sở tại Đại học UC Santa Barbara và là một phần của Mạng lưới nghiên cứu sinh thái dài hạn (LTER) thuộc Quỹ Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ đã tăng cường việc thu thập các dữ liệu hình ảnh từ vệ tinh. Năm 1980, NSF đã thành lập Chương trình LTER hỗ trợ nghiên cứu về lâu dài các hiện tượng sinh thái. SBC LTER trở thành trang web thứ 24 trong mạng LTER vào tháng 4 năm 2000. Các Dự án nghiên cứu sinh thái ven biển Santa Barbara trong dài hạn đã đóng góp dữ liệu của hơn 10 năm nghiên cứu về loài tảo bẹ khổng lồ cho nghiên cứu hiện tại.
Các nhà khoa học cho rằng, sự phối hợp liên ngành giữa các nhà địa lý và các nhà khoa học biển là phổ biến tại Đại học UC Santa Barbara, Hoa kỳ và là một thế mạnh của chương trình nghiên cứu khoa học biển.
Daniel C. Reed, đồng tác giả và là nhà sinh học thực nghiệm với Viện Khoa học hàng hải của Đại học UC Santa Barbara, Hoa kỳ, đồng thời là điều tra viên chính của dự án SBC LTER. Reed đã dành nhiều giờ như một thợ lặn nghiên cứu. Ông giải thích: "Tảo bẹ xuất hiện các bản vá lỗi rời rạc. Các bản vá lỗi được kết nối về mặt di truyền và sinh thái, những loài sống trên thân tảo bẹ có thể di chuyển từ một bản vá này sang một bản vá khác. Hình ảnh từ Vệ tinh cho phép chúng ta nhìn vào các động thái của các bản vá lỗi khác nhau đang phát triển và... mở rộng như thế nào, và để có được một cảm giác tốt hơn như thế nào khi tảo bẹ được kết nối. Chúng tôi không thể có được cảm giác đó thông qua các phác họa của thợ lặn. Tuy nhiên, các phác họa của thợ lặn, lại giúp chúng tôi hiệu chỉnh các dữ liệu vệ tinh, do đó, thực sự quan trọng để có cả hai nguồn thông tin."
Tác giả thứ tư của nghiên cứu này là Philip E. Dennison. Ông nhận bằng tiến sĩ địa lý tại Đại học UC Santa Barbara, Hoa Kỳ, và hiện là phó giáo sư tại Khoa Địa lý, tại trường Đại học Utah, Hoa Kỳ.
Nhóm nghiên cứu nhận được tài trợ từ cơ quan NASA và Quỹ Khoa học Quốc gia Hoa kỳ.

Rừng sâm quý được trồng “bí mật” tại Kon Tum


Một rừng sâm quý Ngọc Linh 140 ha được ươm trồng “bí mật” trong suốt 13 năm qua hoàn toàn trong điều kiện tự nhiên giữa rừng già nguyên sinh vừa được công bố.
Theo VTV, rừng sâm này, được trồng trên đỉnh núi Ngọc Linh, tỉnh Kon Tum, nơi có độ cao hơn 2.000 mét so với mực nước biển. Với 140 ha sâm Ngọc Linh, mỗi ha cho sản lượng ít nhất 1 tấn sâm, theo giá thị trường hiện nay có thể thu về 50 tỷ đồng.
VTV dẫn lời ông Trần Hoàn, chủ tịch HĐQT-TGĐ Công ty CP sâm Ngọc Linh Kon Tum cho biết: “Có thời điểm chúng tôi phải mua đến 50 triệu đồng/kg sâm, trong khi tỉ lệ sống của nó chỉ đạt từ 30-40%. Hàng chục năm nay, chúng tôi đã rải người đi khắp các xã thuộc địa bàn có sâm. Khi dân kiếm được thì chúng tôi thu mua rồi lại mang lên rừng”.
Rừng sâm ngọc linh
Rừng sâm Ngọc Linh được trồng bí mật. Ảnh: SGTT
Với việc công bố vườn sâm 140 ha, bài toán về giống, khó khăn lớn nhất trong chiến lược nhân rộng loài dược liệu quý này đã được giải quyết. Riêng trong năm nay, vườn sâm Ngọc Linh 140 ha sẽ cung cấp 1 triệu cây giống, tương đương với 20 ha trồng mới.
Chính phủ cũng đã có chủ trương đưa sâm Ngọc Linh thành 3 sản phẩm dược liệu quốc gia. Tuy nhiên, chỉ khi vườn sâm “bí mật” 140 ha được công bố, thì hướng phát triển bền vững cho người dân địa phương thông qua loài dược liệu này mới trở nên thực sự khả thi. Dự kiến, sâm Ngọc Linh sẽ được cung cấp ra thị trường từ cuối năm nay.
Được biết, sâm Ngọc Linh là loại dược liệu cực kỳ quý hiếm, chỉ riêng có ở vùng núi cực cao thuộc một ít huyện của Kon Tum và Quảng Nam trong sơn hệ Ngọc Linh (có đỉnh cao 2.598m). Cây sâm Ngọc Linh đã sớm cạn kiệt và đứng trước nguy cơ tuyệt chủng do bị săn lùng ráo riết sau ngày được phát hiện (1973). Sâm Ngọc Linh được xếp đầu bảng trong Sách đỏ thực vật Việt Nam (1994).
Nỗ lực cứu cây sâm quý, từ những năm 1990, ngành chức năng ở Quảng Nam, Kon Tum đã lập những chốt điểm trồng sâm di thực ở quanh núi Ngọc Linh, vốn có độ cao và những điều kiện phù hợp cho sự phát triển của cây sâm Ngọc Linh.
Vượt qua hàng loạt những khó khăn, từ cơ chế tổ chức - chốt trồng sâm di thực ở cao điểm xa xôi, hẻo hút, đến mò mẫm kiếm tìm kỹ thuật nhân trồng, chăm sóc, cuối cùng, hơn mười năm nay Trại Dược liệu Trà Linh - thuộc Công ty Dược Quảng Nam, đã không chỉ bảo tồn được nguồn gen mà còn phát triển sâm Ngọc Linh thành cây trồng kinh tế. Từ năm 2008, công ty đã có sản phẩm sâm Ngọc Linh bán ra thị trường.
Từ 5 năm nay, một số cư dân Ngọc Linh – những người Xơ-đăng bản địa ở huyện Nam Trà My (Quảng Nam) và huyện Tu Mơ Rông (Kon Tum), đã mở được mùa vàng của cây sâm quý. Nhiều chủ hộ ở Trà Linh (Nam Trà My) ngoài việc bán củ sâm (từ 5 đến 7 tuổi) còn có thu nhập thêm từ bán cây sâm giống cho bà con trong vùng, cả cho cư dân vùng Tu Mơ Rông.

Xuất hiện mưa pha lê


Lần đầu tiên, kính viễn vọng Spitzer của Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) phát hiện một cơn mưa pha lê trên một ngôi sao mới hình thành.
Được tạo thành từ forsterite, những hạt pha lê này thuộc họ khoáng chất silicat, có thể được tìm thấy ở mọi nơi, từ những mẫu đá quý periodot, trên các bãi biển cát xanh ở Hawaii, hay các dải ngân hà xa xôi.
Mưa pha lê
Các máy dò của kính viễn vọng phát hiện cơn mưa pha lê xanh trên bề mặt sao mới hình thành. (Nguồn: Xinhua).
Tuy nhiên, hiên các nhà thiên văn vẫn đang tranh luận bằng cách nào mà các hạt pha lê lên được ngôi sao mới hình thành này. “Có thể những hạt pha lê này được đốt nóng trên bề mặt của ngôi sao mới hình thành mang tên HOPS-68, sau đó bị các đám mây có nhiệt độ thấp hơn cuốn đi và rơi xuống với vẻ lấp lánh”, Tom Megeath ở ĐH Toledo cho biết.
Việc phát hiện các hạt pha lê trên các đám mây bay trên các ngôi sao mới nổi khiến các nhà khoa học rất ngạc nhiên vì nhiệt độ trên những đám mây này chỉ là -170 độ C.
Khám phá này cũng có thể giải thích tại sao các sao chổi, được hình thành ở vùng ngoài lạnh giá của hệ mặt trời, cũng chứa loại pha lê tương tự.

Những loài chim không bao giờ... bay

Những loài chim hiếm hoi trong tự nhiên bị tước đi cái đặc quyền của giống loài là sải cánh tung bay trên bầu trời rộng lớn.

1. Chim Takahe

Chim Takahe
Loài chim này chỉ được tìm thấy tại New Zealand và đã được cho là tuyệt chủng cho đến khi người ta tìm thấy một vài cá thể ít ỏi ở gần hồ Te Anau tại núi Murchison. Với chiều dài khoảng 63 cm, đây là một loài chim bé nhỏ, đôi cánh nhỏ yếu nhưng bù lại cặp chân chắc khỏe và chiếc mỏ to “khác thường”. Hiện nay, chỉ còn có khoảng 225 con còn sinh sống trong khu vực bảo tồn và các biện pháp bảo vệ được tăng cường để tránh nguy cơ tuyệt chủng của loài. Tuy vây, quá trình phát triển chậm và khả năng sinh sản thấp là một vấn đề rất lớn đe dọa đến loài chim quý hiếm này.

2. Chim cánh cụt

Chim cánh cụt
Chim cánh cụt thì chẳng còn xa lạ gì với chúng ta và mặc dù không bay được nhưng chúng lại là một tay bơi cừ khôi với bước sải tay rất nhanh. Loài cánh cụt sống chủ yếu ở vùng khí hậu lạnh giá ở bán cầu Nam. Hiện nay, người ta ước tính có khoảng 20 loài chim cánh cụt. Giống lớn nhất là cánh cụt Hoàng đế còn loài nhỏ bé nhất là cánh cụt Xanh. Thức ăn ưa thích của chim cánh cụt là cá, mực và các loài sinh vật biển khác mà chúng tìm thấy được khi bơi dưới nước.

3. Chim Kiwi

Chim Kiwi
Đây là loài chim bản địa của đất nước New Zealand và được xem như là biểu tượng quốc gia. Chỉ có khoảng 5 loài thuộc giống chim này. Chim Kiwi rất bé nhỏ nên chúng khá nhút nhát và chuyên sống về đêm. Bạn chỉ có nhìn thấy chúng vào ban ngày tại các khu vực bảo tồn dành riêng cho loài chim quý hiếm này. Chúng có khứu giác rất tốt và là một loài đặc biệt với lỗ mũi ở phần cuối của chiếc mỏ.

4. Đà điểu

Đà điểu
Đây là loài lớn nhất trong danh sách và cũng là loài duy nhất sống theo bầy đàn. Đà điểu có thể nói là một “tay đua” siêu tốc với tốc độ lên đến 46m/h. Não của loài chim này rất bé nên chúng cũng thường hay làm những chuyện khá điên rồ. Bạn chớ dại mà đến gần loài chim này vì chúng to xác và khá là hung dữ với cú đá “nguy hiểm khôn lường”.

5. Đà điểu đầu mèo Cassowary

Đà điểu đầu mèo Cassowary
Dù bé hơn loài đà điểu nhưng giống đà điểu đầu mèo Cassowary ở Úc cũng là một loài chim “to lớn” khác thường. Thức ăn chủ yếu của chúng là trái cây và các loại cây trồng khác. Đây cũng là một giống chim hung dữ và rất nguy hiểm tuy nhiên chúng mới bị tuyệt chủng cách đây không lâu.

6. Chim Rhea

Chim Rhea
Là loài chim bản địa có nguồn gốc ở Nam Mỹ, chim Rhea có cánh rất lớn và thường sải rộng cánh khi chạy. Chỉ có 2 loài thuộc giống này là chim Rhea Mỹ và Rhea Darwin. Chúng mất 6 tháng để trưởng thành nhưng chỉ đến khi được 2 tuổi mới bắt đầu quá trình sinh sản, phối giống.

7. Chim Kakapo

Chim Kakapo
Đây là giống chim rất phổ biến ở New Zealand trước đây với rất nhiều hóa thạch cổ đại được tìm thấy ở khắp nơi. Tuy nhiên, loài chim Kakapo đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng cao nên nhiều kế hoạch bảo tồn đang được gấp rút thực hiện để ngăn chặn mối nguy tiềm tàng này. Dấu hiệu đáng mừng là thời gian gần đây số lượng của loài đã tăng lên đáng kể. Đây là loài chim chuyên sống về đêm nên không có gì ngạc nhiên khi ý nghĩa cái tên Kakapo có nghĩa là “ Cú đêm”. Ngoài ra, với rất nhiều đặc điểm giống như loài vẹt nên chúng còn có tên gọi khác là “Cú vẹt”.

8. Chim Emu

Chim Emu
Đây là giống chim bản địa lớn nhất ở nước Úc với chiều cao đến 2m, chúng cũng là một tay đua cự phách với tốc độ tối đa là 30m/h dẫu vẫn kém cạnh so với giống đà điểu. Chúng sống trong một điều kiện môi trường rất tốt và hầu như không có bất kỳ mối đe dọa nào cả. Có khoảng 3 loài chim khác nhau thuộc giống này tại Úc.

9. Chim cốc Galapagos

Chim cốc Galapagos
Có tên như vậy vì chúng là loài chim bản địa trên đảo Galapagos gần Ecuador. Đây là loài chim duy nhất trong giống chim cốc mất khả năng bay lượn và sống chủ yếu dưới nước và trên cạn. Thức ăn ưa thích của chúng là cá, cá chình, bạch tuộc bé và các sinh vật biển nhỏ khác. Mùa sinh sản của chim cốc Galapagos thường bắt đầu vào các tháng lạnh giá từ tháng 7-10 vì khi đó chúng được đảm bảo một nguồn lương thực dồi dào. Chỉ còn khoảng 1500 con còn lại trong tự nhiên nên nguy cơ tuyệt chủng của loài này cũng rất cao.

Bọ nước khổng lồ bắt rắn ăn thịt


Một nhà khoa học Nhật Bản đã may mắn chụp được những cảnh tượng hiếm hoi về một loài bọ nước khổng lồ bắt rắn và rùa con ăn thịt.
Một con bọ Kirkaldyia deyrolli đang ăn thịt một con rùa con
Bọ nước khổng lồ ăn thịt rùa con. Ảnh: BBC
Từ lâu, người ta đã biết rằng các con bọ lớn thuộc họ Lethocerinae nhằm tấn công những động vật có xương sống nhỏ bao gồm cả cá và ếch để ăn thịt. Tuy nhiên, không giống như những côn trùng sau đó thường trở thành con mồi của các loài bò sát, các nhà khoa học đã phát hiện một loài bọ đặc biệt chuyên ăn thịt rắn và rùa.
Theo hãng thông tấn BBC, nhà sinh vật học - tiến sĩ Shin-ya Ohba đã ghi lại được hành động bất thường vào ban đêm trong quá trình lấy mẫu ở phía tây Hyogo, miền trung Nhật Bản. Viết trên tạp chí Khoa học về côn trùng, tiến sĩ Ohba mô tả đã quan sát được một con bọKirkaldyia deyrolli đang ăn thịt một con rùa hồ Reeve trong một con mương cạnh ruộng lúa. Con bọ nước khổng lồ đã sử dụng các chân trước của nó tóm chặt con rùa, đâm cái mỏ giống như ống chích của nó vào cổ của con mồi để đánh chén.
Các nghiên cứu cho thấy, loài bọ nước khổng lồ thường chỉ tấn công con mồi di động. Vì vậy, nhiều khả năng là con côn trùng mà tiến sĩ Ohba quan sát được đã tóm và gết chết con rùa con trước khi ăn thịt nó.
Bọ Kirkaldyia deyrolli tấn công rắn
... và tấn công cả rắn. Ảnh: BBC
Ông Ohba cũng từng chụp được ảnh các con bọ nước khổng lồ ăn thịt rắn trong quá khứ.
"Mọi người cho rằng các con bọ Lethocerinae sống dựa vào cá và ếch. Mặc dù việc ăn rùa và rắn là rất hiếm trong điều kiện tự nhiên nhưng các bằng chứng mới thu được đã gây kinh ngạc cho các nhà tự nhiên học bằng việc cho thấy thói phàm ăn của họ côn trùng này", tiến sĩ Ohba nói. Theo ông, bằng chứng về các con bọ săn bò sát đã dấy lên hoài nghi đối với các quan điểm trước đó về mối quan hệ kẻ săn mồi - con mồi trong môi trường nước ngọt.
Bọ Kirkaldyia deyrolli sinh trưởng tự nhiên ở Nhật Bản, nơi chúng thường được tìm thấy trong các cánh đồng lúa gạo và ăn chủ yếu là cá nhỏ, ếch nhái. Cơ quan bảo vệ môi trường Nhật Bản đã liệt loài sinh vật này vào diện bị đe dọa sau sự suy giảm số lượng loài nghiêm trọng trong hơn 40 năm qua vì mất môi trường sống và ô nhiễm nước.
Các con bọ nước khổng lồ thuộc họ Lethocerinae có thể phát triển chiều dài tới 15cm. Chúng là động vật sống về đêm, có thể bay và dựa vào ánh sáng trăng tròn để di cư. Vũ khí của loài sinh vật này là vết cắn chứa nọc độc mà chúng dùng để đánh bại con mồi. Có một số trường hợp bọ nước đã cắn người, gây ra sự đau đớn có thể kéo dài nhiều tiếng đồng hồ.

Phát hiện tượng ông của Vua Tut


Bức tượng thứ hai trong cặp tượng về ông của Vua Tut đã được phát hiện tại một hầm mộ nơi ông được chôn cất, Bộ trưởng Bộ cổ vật Ai Cập cho biết hôm qua, 31/5.
Theo Bộ trưởng Zahi Hawass, bức tượng thạch cao tuyết hoa cho thấy, vua Amenhotep III ngồi và mang một chiếc khăn trùm đầu của phụ nữ Nemes, một chiếc váy xếp nếp và bộ râu hoàng gia. Khăn trùm đầu Nemes là loại khăn vằn rủ sau tai của một vị vua và trùm qua vai ông.
Vua Amenhotep III
Vua Amenhotep III - Ảnh: freamasons.com.
Bức tượng được phát hiện tại Kom el-Hettan, nằm bên bờ tây của Luxor. Bức tượng đặt ở hành lang dẫn vào cổng thứ ba của khu hầm mộ, khoảng 200m bên dưới Tượng Memnon khổng lồ, bức tượng đứng gác ở cổng đầu tiên.
Các phát hiện khảo cổ này tiếp tục làm sáng tỏ thêm về vua Tutankhamen, vị vua nam cai trị Ai Cập từ năm 1333 trước công nguyên đến năm 1324 trước công nguyên, trong suốt thời kỳ lịch sử cổ đại Ai Cập được gọi là Vương quốc mới. Dẫn rằng vua Tut là vị vua nổi tiếng nhất trong các vị vua Ai Cập nhưng nhiều bí ẩn vẫn còn tồn tại về cha mẹ ông cũng như là cuộc sống và cái chết của ông.
"Bức tượng này là bức tượng phía Bắc của một cặp tượng khổng lồ đã từng được đặt tại cổng của cửa tháp thứ ba", ông Hawasss viết trên trang web cá nhân của ông. Một cuộc khai quật trước đó đã phát hiện ra phía sau của một trong hai bức tượng.
Ông Hawass cho biết, cả hai bức tượng có thể đã bị đổ trong một trận động đất cổ. Đá, được lấy từ mỏ đá Hatnub ở vùng trung Ai Cập, hiếm khi được sử dụng cho những bức tượng khổng lồ như vậy. Cặp tượng từ Kom el-Hettan là những mẫu được bảo tồn duy nhất bởi kích thước của chúng, đạt tới độ cao 18m.
Bức tượng khác về ông của vua Tut, làm từ đá granit đỏ, được thông báo hồi tháng 10/2010 và cho thấy, vị vua đang mang một chiếc mũ miện kép và ngồi trên một ngai vàng kế bên vị thần Theban Amun.

Thế giới động vật, những điều ít biết


Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học chắc chắn sẽ khiến bạn ngạc nhiên, chẳng hạn như muỗi có tới 47 chiếc răng hay ở loài cá ngựa, con đực mới giữ vai trò mang thai ...
Cự đà có 2 dương vật
Cự đà sống phổ biến tại các khu rừng già ở khu vực Caribbe, Trung và Nam Mỹ. Ảnh: True Wildlife.
Cự đà có 2 dương vật.
Cá mập voi có hơn 4.000 răng. Mỗi chiếc chỉ dài 3mm.
Muỗi bị hấp dẫn nhất trước màu xanh nước biển, gấp 2 lần so với bất kỳ màu sắc nào khác.
Tim của một con tôm tọa lạc trên đầu của nó.
Cá mập dường như là loài động vật duy nhất không bao giờ bị bệnh. Chúng miễn dịch với mọi loại bệnh, kể cả ung thư.
Hươu cao cổ không có dây thanh âm.
Cá ngựa đực mang thai hộ vợ
Cá ngựa đực mang thai hộ vợ. Ảnh: Marine Discovery Centre.
Ở loài cá ngựa, con đực giữ vai trò mang thai.
Chim hải âu lớn có thể ngủ trong lúc bay.
Cơ quan sinh dục của một con nhện đực nằm ở phần cuối một trong những chiếc chân của nó.
Các tai của một con dế nằm trên những chân trước, ngay phía dưới khớp gối.
Chỉ có đom đóm đực mới có thể bay được.
Ở loài muỗi, chỉ có con cái chích và hút máu người.
Cá tuế có răng trong cổ họng của chúng.
Khỉ đực cũng rụng tóc trên đầu tương tự như các quý ông của chúng ta.
Nếu một con tôm hùm mất một mắt, nó sẽ phát triển một mắt khác.
Linh cẩu thường ăn phân của những động vật khác.
Con người và cá heo là những loài duy nhất quan hệ tình dục vì khoái lạc.
Ếch không thể nuốt nếu không chớp mắt.
Hồng hạc tè lên chân của chúng để tự làm mát. Loài chim này cũng chỉ có thể ăn với đầu lộn ngược.
Chim hoàng yến cái không thể hót.
Đại bàng giao phối trên không.
Vịt chỉ đẻ trứng vào sáng sớm.
Cá heo ngủ với một mắt mở.
Cá sấu nuốt sỏi để giúp chúng lặn sâu hơn. Kỳ lạ hơn, cá sấu con không có nhiễm sắc thể giới tính và giới tính của chúng do nhiệt độ quyết định. Nếu trứng cá sấu được ấp ở nhiệt độ trên 33 độ C, trứng sau đó sẽ nở thành cá sấu đực. Ở các mức nhiệt độ thấp hơn, trứng chỉ nở thành cá sấu cái.
Trâu bò là những động vật có vú duy nhất tè về phía sau.
Mèo không thể nếm được những thứ có vị ngọt.
Lạc đà có ba mí mắt để bảo vệ chúng khỏi cát bay.
Thiên nga là loài chim duy nhất có dương vật
Thiên nga là loài chim duy nhất có dương vật. Ảnh: Wikipedia.
Thiên nga là loài chim duy nhất có dương vật.
Hải ly có răng màu da cam. Với chỉ một lần hít thở, chúng có thể bơi một mạch 800 mét dưới nước.
Dơi luôn rẽ trái khi rời khỏi một hang động.
Mắt của đà điểu lớn hơn não của chúng.
Vòi của một con voi không có xương nhưng sở hữu tới 40.000 cơ.
Mọi gấu Bắc cực đều thuận tay trái.
Sau khi ăn, ruồi ợ ra những thứ vừa đánh chén và ăn lại chúng một lần nữa!
Bò tót mù màu nên chỉ bị kích động bởi chiếc áo choàng phất phất của đấu sĩ dù nó màu gì
Bò tót mù màu nên chỉ bị kích động bởi chiếc áo choàng phất phất của đấu sĩ dù nó màu gì.
Ảnh: WordPress.
Bò tót mù màu, vì thế chúng thường sẽ tấn công tấm áo choàng mà một đấu sĩ đấu bò vung vẩy dù nó màu gì, đỏ hay vàng.
Ở loài trai, tất cả các cá thể bắt đầu là con đực. Tuy nhiên, một số con trai quyết định trở thành con cái tại một số điểm nào đó trong cuộc đời của chúng.
Da của gấu Bắc cực có màu đen. Lông của chúng không phải là màu trắng mà thực tế là màu sáng trong.
Dương vật của một con lợn có hình xoắn ruột gà.
Sâu bướm không có dạ dày.
Chuột túi không thể nhảy nếu đuôi không chạm đất
Chuột túi không thể nhảy nếu đuôi không chạm đất. Ảnh: True Wildlife
Chuột túi không thể nhảy nếu đuôi của nó không chạm mặt đất.
95% cơ thể sứa là nước.
Một con hươu cao cổ có thể dùng chiếc lưỡi dài 53cm của nó để tự làm sạch đôi tai.
Mọi tuyến mồ hôi của một con bò nằm trong mũi của nó.
Muỗi có 47 răng.
Trong suốt cuộc đời của mình, một con hàu sẽ thay đổi giới tính của nó nhiều lần.

Lần đầu tiên phát hiện 'ông hùm' nuôi con


Giới chức bảo tồn tại Ấn Độ phát hiện một con hổ đực chăm sóc hai con non, hiện tượng hiếm hoi trong thế giới của hổ.

BBC đưa tin một hổ cái trong khu bảo tồn Ranthambore chết vào ngày 9/2, để lại hai con. Sau đó qua những bức ảnh mà camera trong rừng chụp được họ thấy một con hổ đực có tên T25 chăm sóc hai con vật không may mắn giống như mẹ của chúng. Giới chức khu bảo tồn chưa xác định được cặp hổ non có phải là con ruột của hổ đực hay không.
Ông Rajesh Gupta, một quan chức của khu bảo tồn, kể rằng trong bức ảnh gần đây nhất, T25 bước sau hai hổ con chừng một mét.
"Ngày 30/5 tôi đã phóng xe vào khu bảo tồn. Từ trên đỉnh một vách đá, tôi thấy một trong hai hổ con ăn mồi mà hổ đực tha về", Gupta nói.
Bức ảnh chụp ngày 15/4 cho thấy hổ đực bước cách hổ con chừng một mét. Ảnh: BBC.
Bức ảnh chụp ngày 14/5 cho thấy hổ đực bước cách hổ con chừng một mét. Ảnh: BBC.
Giới khoa học cho biết, trong thế giới của loài hổ, nhiệm vụ chăm sóc con thuộc vể hổ cái. Từ trước tới nay chưa có bất kỳ tài liệu nào ghi nhận hổ đực chăm sóc con. Hổ đực không ăn thịt con của chúng, song sẵn sàng giết chết con của kẻ khác khi có cơ hội. Sau khi những đứa con chết, hổ cái sẽ bước vào thời kỳ động dục sớm hơn và hổ đực sẽ tranh thủ thời cơ đó để tạo ra những đứa con của nó.
Ranthambore, một trong những khu bảo tồn hổ nổi tiếng nhất của Ấn Độ, có khoảng 40 con hổ, trong đó bao gồm hàng chục hổ con.
Theo số liệu thống kê mới nhất được thực hiện vào tháng 3, hiện 1.706 con hổ sống tại Ấn Độ.

Hồ Ba Bể thành khu Ramsar thứ 3 của Việt Nam


Nhân ngày môi trường thế giới 5/6, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ trao quyết định của UNESCO công nhận Ba Bể là khu Ramsar (vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế).

Ảnh: Vietnam.vn
Hồ Ba Bể. Ảnh: Vietnam.vn.
Trước đó, Tổng thư ký Công ước Ramsar Anad Tiega đã ký công nhận hồ Ba Bể là vùng đất ngập nước quan trọng của thế giới. Sự kiện này đưa hồ Ba Bể (Bắc Kạn) trở thành khu Ramsar thứ 3 của Việt Nam sau Xuân Thủy (Nam Định) và Bàu Sấu (Đồng Nai).
Khu Ramsar quốc gia Ba Bể có hồ rộng khoảng 500ha trên độ cao 178 m so với mặt biển. Đây là hồ tự nhiên trên núi duy nhất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng ở Việt Nam.
Hồ Ba Bể nằm trong quần thể Vườn quốc gia Ba Bể với 21 điểm du lịch, danh thắng đặc sắc như hang Dơi, động Puông, động Nả Phoòng, động Thẳm Kít. Đây là nơi có các quần thể của một số loài động vật quan trọng trong việc duy trì tính đa dạng sinh học và là nơi duy nhất ở Việt Nam ghi nhận một loài linh trưởng có vùng phân là bố hẹp là voọc đen má trắng.
Hồ Ba Bể còn là khu bảo tồn đất ngập nước có tầm quan trọng của thế giới và là một trong 20 hồ nước ngọt đẹp nhất thế giới đã được công nhận là Vườn di sản ASEAN.
Ngày 20/9/1988, Văn phòng Công ước Ramsar đã công nhận Xuân Thuỷ (Nam Định) là khu Ramsar đầu tiên của Việt Nam. Theo đó, Việt Nam trở thành quốc gia đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á tham gia vào Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế (Công ước Ramsar - văn kiện được các nước tham gia ký tại thành phố Ramsar, Iran ngày 2/2/1971).
Gần 20 năm sau, Bàu Sấu nằm trong Vườn quốc gia Cát Tiên, tỉnh Đồng Nai được công nhận là Khu Ramsar thứ 2 vào ngày 4/8/2005.
Cục Bảo tồn đa dạng sinh học cho biết, trong thời gian tới, cơ quan thẩm quyền Ramsar tại Việt Nam sẽ tiếp tục đề cử Tràm Chim thành khu Ramsar thứ 4 của Việt Nam.

Điện thoại di động bị liệt vào danh sách có thể gây ung thư



Ảnh:
Ảnh: sciencedaily.

Điện thoại di động vừa bị Tổ chức Y tế Thế (WHO) giới xếp vào danh sách các tác nhân có thể sinh ung thư, trong đó từng điểm mặt nhiều chất độc "lừng danh" như thuốc trừ sâu DDT, hay khói thải xe hơi.

Quyết định này được mạng lưới các chuyên gia của Cơ quan Quốc tế Nghiên cứu Ung thư của WHO đưa ra hôm qua, sau khi điều tra lại một loạt công trình nghiên cứu đã xuất bản trước đây về tác hại của sản phẩm này.
Ước tính có khoảng 5 tỷ người đang sử dụng điện thoại di động, chiếm gần 3/4 dân số thế giới.
Câu hỏi điện thoại di động có gây ung thư hay không đã trở thành chủ đề nóng khi sản phẩm này ra đời vào cuối thập kỷ 1970. Khoảng 30 nghiên cứu cho tới nay đã thất bại khi tìm kiếm mối liên hệ này. Tuy nhiên, một nghiên cứu quy mô lớn hồi năm ngoái lại tìm thấy một sự tăng nhẹ - tuy chưa có ý nghĩa lắm về mặt số liệu - cho thấy nhóm người dùng "dế" có nguy cơ mắc một dạng ung thư não hiếm gặp có tên là glioma.
Một công trình khác do Viện Nghiên cứu sức khỏe quốc gia Mỹ tiến hành cũng tìm thấy điện thoại di động làm tăng hoạt động của não.
Quyết định xếp loại nói trên đã gây ngạc nhiên cho các chuyên gia nằm ngoài mạng lưới nghiên cứu của WHO, khi cho rằng dữ liệu liên quan giữa điện thoại di động và ung thư não vẫn chưa thuyết phục.
"Sự thực là tất cả các nghiên cứu lâm sàng tới nay về cơ bản đều cho kết quả phủ định", tiến sĩ Henry Friedman, phó giám đốc Trung tâm U não Preston Robert Tisch ở Trung tâm y tế Đại học Duke (Mỹ) nhận xét.
"Trong khi các bằng chứng thí nghiệm và các nghiên cứu rất hẹp trên người cho thấy cần cảnh giác, thì mọi người cũng nên hiểu rằng có rất nhiều thứ xung quanh ta tiếp xúc hàng ngày cũng bị xếp vào danh sách tác nhân có thể gây ung thư", tiến sĩ Peter Shields, giám đốc chương trình dịch tễ học và gene ung thư tại Bệnh viện Đại học Georgetown ở thủ đô Washington cho biết.
Ông cũng nhấn mạnh rằng "Xếp loại điện thoại di động ở danh sách này là thấp nhất trong các hạng, và không ai phải sợ rằng nó có thể đe dọa giống như là thuốc lá hay amiăng".
Thợ làm đầu bị xếp nguy hiểm ở mức cao hơn sử dụng điện thoại đi động. Ngoài ra, danh sách tác nhân gây ung thư nói trên còn có những việc như lính cứu hỏa hay thợ giặt là khô.
Một số chuyên gia khác thì bình luận rằng "việc xếp loại nói trên không có nghĩa là điện thoại đi động gây ung thư".
"Điều duy nhất thấy được từ việc xếp loại này là có thể chúng ta cần thêm các nghiên cứu trong thời gian dài hơn nữa", một chuyên gia cho biết.
Mặc dù vậy, một số chuyên gia lại tin rằng bằng chứng này - dù chưa thuyết phục - vẫn đáng để cảnh báo. Trong số 92 bác sĩ được trang ABC khảo sát, 65 người cho biết họ sẽ tiếp tục nghe điện thoại đi động áp vào tai, nhưng 27 người nói họ sẽ sử dụng thiết bị không cần cầm tay để hạn chế nguy cơ này.

10 điểm đến “ưa thích” của UFO

Theo mạng lưới trao đổi thông tin về UFO toàn cầu (MUFON), tần suất UFO xuất hiện trong những năm gần đây tăng đáng kể. Tổng giám đốc Clifford Clift của MUFON cho biết thông thường khoảng 80% trường hợp có thể giải thích được bằng khoa học, nhưng khoảng 20% trường hợp còn lại có thể khiến bạn “dựng tóc gáy”.
Bên cạnh các địa điểm đã trở thành một phần lịch sử của UFO như Roswell và Kecksburg (Mỹ), ngày càng có nhiều địa danh trên Trái đất trở nên nổi tiếng vì gắn liền với UFO. Sau đây là 10 điểm đến “nóng” nhất của UFO trên Trái đất trong thời gian gần đây.
1. Mexico City, Mexico

Là một trong những địa điểm UFO hoạt động tích cực nhất kể từ năm 1991 khi một UFO được ghi lại lúc nguyệt thực. Kể từ đó, có nhiều báo cáo về các vật thể bay không xác định và những vệt sáng dị thường của chúng.
2. Puerto Rico

Hòn đảo xinh đẹp vùng Caribe cũng là một nơi dừng chân yêu thích của cả UFO và những người “săn” UFO. Rất nhiều người đã kéo về hòn đảo nhiệt đới này để mong có cơ hội chiêm ngưỡng UFO.
3. Wiltshire, Anh

Là một trong những nơi bí ẩn nhất thế giới với bãi đá cổ Stonehenge và vòng tròn bí ẩn Silbury Hill, UFO xuất hiện thường xuyên khiến Wiltshire càng trở nên bí ẩn.


Hình ảnh một vật thể bay không xác định (Nguồn: allnewsweb.com).
4. San Clemente, Chile

Kể từ đầu những năm 1990 đến nay, các dấu hiệu của UFO xuất hiện ngày càng dày đặc. Có tin đồn cho rằng một số nơi trong khu vực này là điểm hạ cánh của UFO. Do đó San Clemente là địa điểm không thể bỏ qua của những người “săn” UFO.
5. Falkirk Triangle, Scotland

Kể từ những năm 1900, khu vực này ghi nhận hơn 2000 lần UFO xuất hiện. Chỉ riêng ở Edinburgh và Bonnybridge trong vòng 1 năm đã có hơn 300 báo cáo về UFO. Bộ quốc phòng Anh đã công bố hơn 6000 hồ sơ mật về UFO ở khu vực này.
6. Himalaya

Được biết đến là một trong những nơi khó tiếp cận vì địa hình đặc biệt hiểm trở, “nóc nhà thế giới” cũng nằm trong danh sách các điểm đến ưa thích của UFO. Người dân địa phương tin rằng có một căn cứ UFO ở đây vì họ nhìn thấy có rất nhiều phi thuyền ngoài hành tinh cất cánh từ nơi này.
7. Sochi, Nga

Các báo cáo về UFO ở khu vực này cho thấy UFO xuất hiện khá nhiều gần đây. Có một số người tin rằng ngọn núi Bytkha ở thành phố Sochi chính là căn cứ của UFO và là cửa ra vào giữa các thế giới.
8. Hạt Erath, bang Texas, Mỹ

Năm 2008 khu vực này là một trong những địa điểm UFO xuất hiện nhiều nhất ở Mỹ. Tháng 2 năm 2008, một số lớn người nhìn thấy những chiếc phi thuyền với quầng sáng rộng trên bầu trời. Kể từ đó, thông tin và báo cáo về các hoạt động của UFO trong khu vực liên tục được cập nhật.
9. Wycliffe Well , Australia

Đã có nhiều báo cáo về sự xuất hiện của UFO ở vực hẻo lánh này. Một số lớn người cho rằng Úc là căn cứ chính của UFO và khu vực này nằm trên đường năng lượng của trái đất nên có thể đã thu hút sự chú ý của UFO hoặc người ngoài hành tinh.
10. Đông Nevada, Mỹ

Nằm giữa căn cứ không quân Nellis và Hill, khu vực này ghi nhận được nhiều hoạt động bất thường của UFO. Cư dân ở đây cho biết, gần đây tần suất nhìn thấy UFO ngày càng nhiều. MUFON thậm chí còn tổ chức một buổi thuyết trình về UFO tại thành phố Ely của tiểu bang này.
UFO ở Châu Á

Theo nhiều chuyên gia về UFO, các báo cáo về UFO đang xuất hiện ngày càng nhiều ở một số khu vực ở Châu Á như Trung Quốc, Myanma… Kể từ khi kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng, nền kinh tế Châu Á trỗi dậy nhanh chóng và cán cân sức mạnh chuyển dịch dần từ Tây sang Đông có thể là nguyên nhân thu hút sự chú ý của UFO. Tờ Wall Street Journal nhận định giờ đây Châu Á không chỉ nhận được sự quan tâm đầu tư của thế giới mà còn là điểm dừng chân ưa thích của UFO.

Chiếc đồng hồ báo thức “trừng phạt” người “ngủ nướng”


 - Bạn có thói quen “ngủ nướng” và thường xuyên bị trễ giờ? Chiếc đồng hồ báo thức độc đáo này sẽ giúp bạn phá bỏ thói quen xấu đó.
 
Hiện chỉ đang ở mức ý tưởng nhưng đây là một ý tưởng độc đáo và thú vị cho một chiếc đồng hồ báo thức. 

Ý tưởng về chiếc đồng hồ rất đơn giản, trước khi đi ngủ, người dùng sẽ bỏ vào bên trong một vật phẩm nào đó có giá trị với mình, hẹn giờ rồi lên giường. 

Khi đồng hồ báo thức reo, nếu vẫn tiếp tục “ngủ nướng”, vật phẩm có giá trị của bạn sẽ bị… phá hủy bởi chiếc đồng hồ. 
Nếu không thức dậy đúng giờ, chiếc đồng hồ sẽ “trừng phạt” người dùng.

Đây thực sự là một “thử thách” đối với người dùng, tuy nhiên lại là một biện pháp hữu ích đối với những ai có thói quen “ngủ nướng” khiến ảnh hưởng đến công việc.

Admin

Thanks for joint